The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  HAI NỮ SINH VIÊN BỊ SÁT HẠI VÀ PHÂN XÁC SAU KHI SONG TU VỚI PHẬT SỐNG

 

HAI NỮ SINH VIÊN (KHÔNG HÀNH MẪU) BỊ GIẾT HẠI PHÂN THÂY SAU KHI NAM NỮ SONG TU VỚI PHẬT SỐNG CỦA PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀN

Tác giả: Tuyết Sơn

Năm 2009, khi tôi bế quan tu hành ở một ngôi chùa lớn tại vùng Tây Tạng, trong ngôi chùa này đã xảy ra một sự kiện khiến người nghe kinh hãi. Có một người tộc Tạng lang thang kiếm ăn đã phát hiện hai bộ thi thể nữ giới bị phân thây trong đống rác của tự viện có Phật sống. Sau khi tra xét, hai người xấu số vị phân xác là nữ sinh tộc Hán, họ đều là những sinh viên vừa tốt nghiệp. Đồng thời, người ta còn phát hiện Phật sống trụ trì trong tự viện đã bỏ trốn vài ngày rồi. Vụ án này đã gây chấn động một thời, sau đó thì lại chìm xuồng. Theo kết quả điều tra, thì hai người chết này khi còn sống đã có quan hệ tình dục với vị Phật sống này. Do xảy ra mâu thuẫn nên mới xảy ra thảm án bị sát hại.

Hiện nay, trong giới sư tăng và cư sĩ người Hán đến vùng Tây Tạng học Phật cầu pháp tồn tại phổ biến một quan niệm sai lầm, đó là mù quang sùng bái một số kẻ được gọi là “Phật sống”, hễ thấy những vị Phật sống này có chút thần thông, thì lập tức hâm mộ chạy theo, mù quáng bái họ làm Thượng sư, đem tất cả mọi thứ kể cả thân thể mình để cúng hiến cho Thượng sư. Họ cho rằng những người này đều là Phật đang sống. Kỳ thực, cái danh từ “Phật sống” là một sự hiểu lầm của chúng ta đối với “Nhân Ba Thiết – Rinpoche” trong tiếng Tạng. Có một số Phật sống tuy có thần thông, nhưng bản chất lại là yêu ma quỷ quái. Hơn nữa, chế độ xác nhận sự chuyển thế của khu vực Tây Tạng đối với Nhân Ba Thiết vô cùng hỗn loạn, không có một tiêu chuẩn nhất định nào. Những người được gọi là Nhân Ba Thiết (Rinpoche) này đã lợi dụng sự sùng bái của người tộc Hán đối với họ, nên chỗ nào cũng giở trò lừa tiền lừa tình, dẫn đến xảy ra thảm kịch nói trên. Sư tăng và cư sĩ người Hán đến Tây Tạng tu hành cầu pháp nhất định phải tiếp thu bài học đầy bi kịch này, đừng có mù quáng sùng bái, lỡ một chân là hận ngàn đời.

Trường hợp thứ 2: Lời chú của tà sư

Khi tôi tu hành tại chùa Á Thanh, có một nữ tăng chúng (ni cô) người Hán đã đắc tội với một vị Phật sống, đã bị Phật sống nguyền rủa bằng lời chú, cô ấy đau tim khổ sở vô cùng, đêm không ngủ được. Để giúp đỡ cô ấy, tôi đã gia trì cho cô ấy, niệm chú hồi hướng cho cô ấy. Tim cô ấy đã hết đau, nhưng lòng tôi lại đau hơn một tháng.

Tôi có một số đệ tử quy y người Ôn Châu, nói trong một ngôi chùa nhỏ gần chỗ họ có một vị tỳ kheo ni học Mật tông, có một số thần thông. Mấy cư sĩ này cũng thường đến ngôi chùa nhỏ đó để thắp hương và thăm hỏi vị tỳ kheo ni này. Nhưng điều quái lạ là, các cư sĩ này nếu như không định kỳ đến ngôi chùa nhỏ này thắp hương thì sẽ cảm thấy toàn thân khó chịu, còn nếu đi đến ngôi chùa này thì cơ thể sẽ không còn xuất hiện hiện tượng khó chịu này nữa. Cho nên, bọn họ đã phải định kỳ đến ngôi chùa nhỏ một cách bất tự chủ để thắp hương và thăm hỏi vị tỳ kheo ni kia. Bọn họ hỏi tôi nguyên nhân của hiện tượng kỳ quái này là gì? Chúng tôi vừa tra xét thì phát hiện bản thể (tu học) của vị tỳ kheo ni này không phải là chính phái, mà là một tà sư. Họ dùng tà chú để mê hoặc chúng sinh, lôi léo lung lạc đệ tử. Những người học Phật chúng ta nhất định phải nhận biết rõ chính tà, nhất định đừng có để bị lừa, cuối cùng sẽ trở thành đệ tử của ma quân đó.

Trường hợp thứ ba: Quy y tà sư, cẩn thận vào ma đạo

Năm 2009, đệ tử quy y ở Thiên Đài - cư sỹ họ Từ gọi điện đến, nói cô ấy bị trượt ngã, cánh tay cũng bị sưng lên, toàn thân đau nhức, buổi tối không ngủ được, nên nhờ tôi gia trì để cô ấy chóng lành bệnh. Tôi hỏi cô ấy vì sao lại trượt ngã? Cô ấy nói có một cư sĩ khác ở Thiên Đài cũng là đệ tử quy y của tôi đã mời một vị Phật sống ở Thanh Hải đến nhà, và mời cư sĩ họ Từ đến nhà cô ấy để quy y vị Phật sống này. Cư sĩ Từ thoạt đầu không muốn đi, sau đó vì thịnh tình khó từ chối nên đã đi. Sau khi quy y, lúc xuống cầu thang, bị ngã lộn từ cầu thang xuống. Mấy tháng sau, tôi trở về Thiên Đài, một cư sĩ đến tìm tôi kể từ sau khi anh ta quy y vị Phật sống này, liên tiếp hai lần lái xe đâm trọng thương hai học sinh, phải vào bệnh viện. Tôi kiểm tra một chút thấy những việc xảy ra trên đây đều có liên quan đến vị Phật sống nọ. Tôi nhìn ảnh của vị Phật sống ấy, thấy vị Phật sống này có công lực rất lớn, nhưng mặt đầy sát khí, bản chất là người tu hành đã nhập ma. Tôi nói với các vị cư sĩ ấy, vị Phật sống này không phải là Phật sống chính phái, khuyên họ đem tấm ảnh của Phật sống này và giấy chứng nhận quy y ra đốt sạch. Một vài cư sĩ chấp mê bất ngộ, cho rằng tôi ghen ghét với vị Phật sống đó, vì danh văn lợi dưỡng mà lôi kéo đệ tử. Tôi chưa từng chủ động gọi điện thoại cho bất kỳ vị cư sĩ nào, càng không bao giờ đòi hỏi cư sĩ một xu nào, một vật nào. Đến chức trụ trì của chùa Hoa Đỉnh tôi còn không cần, vậy còn mưu đồ cái gì nữa? Đệ tử quy y của tôi có đến hàng ngàn hàng vạn, cũng không để tâm đến mấy người này, tôi đều là vì lo nghĩ cho họ, không nỡ nhìn thấy họ chịu tổn hại mà thôi.

Bọn họ còn nói vị Phật sống này giảng “Tâm Kinh” rất hay. Tôi nói với họ: “Tà nhân dùng pháp, pháp cũng tà. Các anh không có năng lực phân biệt chính và tà, nhưng tôi có thể phân biệt được. Người học Phật không nói vọng ngữ (nói dối), tôi đều là lời thật nói thật. Các anh không nghe lời khuyên bảo của tôi, tôi cũng chẳng có cách nào cả. Các anh sau khi chết sẽ trở thành quyến thuộc của ma, đến lúc đó có hối hận cũng muộn rồi”.

Trường hợp thứ tư: Thượng sư là hồ ly tinh nhập xác

Khi tôi bế quan tu hành, có một số đệ tử quy y vùng Ôn Lĩnh Triết Giang gọi điện đến nói có một sư phụ hơn 30 tuổi vùng Đông Bắc, trước đây sống ở Viện Phật học Ngũ Minh Cam Tư 2 tháng, tự xưng là Thượng sư, muốn quán đỉnh truyền pháp cho bọn họ, tôi vừa nghe đã ngây ngẩn người ra. Ngày nay có nhiều sư phụ đến đất Tạng nằm vùng vài tháng hoặc một hai năm, rồi quay về đất Hán tự xưng là Thượng sư, quán đỉnh truyền pháp cho người ta. Đó là những hành vi không như pháp, là hành vi người mù dắt người mù, cuối cùng đều là vì đạt mục đích lừa lấy tiền tài. Các cư sĩ còn nói với tôi rằng vị sư phụ này có một vài thần thông. Chúng tôi tra xét, thấy trên thân của sư phụ này có 2 con hồ ly tinh bám xác, những thứ thần thông đó không phải là do vị sư phụ này tu được, mà là dựa vào thần thông của con hồ ly tinh, là quỷ thông, yêu thông. Sau đó, tôi khuyên mấy vị cư sĩ này phải tránh xa ông sư phụ đó, không nên để mình bị lừa, bị ông ta làm hại.

Trường hợp thứ năm: Tà nhân dùng pháp, pháp cũng tà

Tất cả đều là Phật pháp, chỉ là xem chúng ta sử dụng như thế nào. Dùng để đem lại lợi ích cho chúng sinh thì là chính pháp, dùng vào việc gây tổn hại chúng sinh thì là tà pháp. Cho nên, người tà dùng pháp thì pháp cũng tà. Có một số tăng nhân mục đích xuất gia không thuần khiết, cốt là vì danh văn lợi dưỡng, dùng một chút pháp để mê hoặc, lôi kéo tín chúng, hoặc dùng chú nguyền rủa những tín chúng này. Tôi có một đệ tử quy y quen biết một vị sư phụ của tự viện nọ. Vị sư phụ đó đòi hỏi cư sĩ này đưa tiền, đưa đồ, nhưng vị cư sĩ này không thỏa mãn yêu cầu của ông ta, ông ta thẹn quá hóa giận, bắt đầu niệm chú nguyền rủa cư sĩ này. Vị cư sĩ này cơ thể khó chịu kéo dài 4 năm, đau đớn không chịu nổi, cuối cùng nhờ có sự giải cứu của tôi mà cơ thể mới khôi phục trở lại bình thường.

Trường hợp thứ sáu: So bì

Vào năm thứ hai tôi ở chùa Hoa Đỉnh, có một vị sư phụ ở Ngũ Đài Sơn tiếp nhận một vị “cách tây” (chú thích: chỉ học vị tiến sĩ của Lạt Ma giáo, có ý nói “thiện tri thức”) của phái Hoàng giáo Tây Tạng, đến chùa Hoa Đỉnh. Nhìn thấy môi trường của Hoa Đỉnh thanh tịnh ưu nhã, ông ta muốn thường trụ tại chùa Hoa Đỉnh. Tôi mời vị cách tây Tạng tăng đó vào phòng làm việc, vì chùa Hoa Đỉnh quanh năm có sương mù, nên đèn huỳnh quang trong phòng làm việc của tôi ban ngày vẫn bật. Khi vị cách tây này bước vào phòng tôi, máy ổn áp trên đèn huỳnh quang đột nhiên bốc khói đặc, đèn huỳnh quang phụt tắt. Lúc đó tôi không để ý. Sau đó tôi sắp xếp cho họ chỗ ở. Buổi tối, khi tôi tọa thiền trên giường trong phòng, cái đèn đối diện tôi bỗng nhiên nổ vỡ, mảnh vỡ thủy tinh của bóng đèn văng cả lên giường tôi, ga và chăn đều bị cháy thủng thành nhiều lỗ đen nhỏ. Sáng sớm hôm sau, bọn họ vội vã rời khỏi chùa.

Trường hợp thứ bảy: Ma khoác áo choàng của đại sư Phật sống

Khi tôi tu hành ở đất Tạng, có quen biết hai vị nữ cư sĩ người Tô Châu. Họ mộ danh bái một vị gọi là “Phật sống” có thần thông làm Thượng sư. Sau đó, qua một thời gian, bọn họ cảm thấy hành vi cử chỉ của vị Thượng sư này có điều bất chính, thế là lại bái một vị Thượng sư tốt khác. Vị “Phật sống” này biết họ bái Phật sống khác làm Thượng sư, bèn nổi trận lôi đình, dùng pháp chú thuật đối với họ. Chẳng bao lâu, người chồng của một nữ cư sĩ trong số đó bị ô tô đâm chết, còn gia đình của một nữ cư sĩ khác thì liên tục xảy ra chuyện, nhân viên cửa hàng nhà cô ấy mỗi năm đều chết một người. Thật đúng là ứng với lời mà ma vương Ba Tuần từng nói với Phật Thích Ca Mâu Ni, vào thời kỳ mạt pháp, ma vương sẽ phái quyến thuộc của mình đến mặc tăng y của Phật giáo, phá hoại Phật pháp, tựa như con trùng trên thân sư tử sẽ ăn thịt sư tử vậy.

Nguồn bài viết: http://blog.sina.com.cn/s/blog_53c4f6410102dymg.html

Lạt Ma giáo tu Song thân pháp không phải là Phật giáo

http://www.lamatruth.com/fanti/?type=detail&id=1299

 

Từ khóa: Phật sống, Thượng sư, Nhân Ba Thiết, cách tây, Lạt Ma giáo

 

Trước đó: KHAI THỊ DÂM UẾ CỦA LIÊN HOA SINH TRONG “MẬT TÔNG ĐẠI GIẢI THOÁT PHÁP”

Tiếp theo: NÓI SƠ VỀ KẾT CỤC CỦA MINH PHI TRONG PHÁP SONG TU CỦA MẬT TÔNG

trang chủ

lượt xem trang: 2050


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg