The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  ÁC MỘNG CỦA KHÔNG HÀNH MẪU

 

ÁC MỘNG CỦA KHÔNG HÀNH MẪU

Thật là trùng hợp, cô Lý Xảo San này lại chính là học sinh của Niệm Huyên năm xưa. Khi Đình Vũ nói với Xảo San rằng cô giáo trung học của cô ấy Hoàng Niệm Huyên muốn gặp mặt, thoạt đầu Xảo San rất vui mừng nhận lời gặp, nhưng sau đó lại lắc đầu từ chối luôn. Cô nói cô không còn mặt mũi nào đi gặp cô giáo nữa. Trước hình huống này, Đình Vũ đành phải nghĩ cách thôi.

Một hôm, Đình Vũ hẹn Xảo San đến văn phòng luật sư thảo luận về điều kiện ly hôn, thì Niệm Huyên cũng đột nhiên đến thăm, không hẹn mà gặp Xảo San. Khi Xảo San nhìn thấy Niệm Huyên, liền hét lên một tiếng “Cô ơi!”, rồi ôm lấy Niệm Huyên khóc nức nở.

Niệm Huyên vòng tay ôm nhẹ lấy lưng Xảo San, đợi Xảo San bình tĩnh trở lại, hai cô trò ngồi trong phòng khách riêng, bắt đầu tâm sự về những hồi ức đau khổ của Xảo San.

“Sau khi kết hôn, em đã từ bỏ công việc ban đầu của mình, cùng chồng kinh doanh một công ty đại lý điện máy có quy mô tương đối khá. Chồng em đối xử với em rất tốt, cũng chưa bao giờ hỏi em về mức độ chi tiêu”, Xảo San bắt đầu kể về đời mình.

“Ba năm trước, một đồng nghiệp nói với em rằng, bọn em làm kinh doanh muốn phát tài, thì nhất định phải thụ quán đỉnh Thần Tài của Mật tông Tây Tạng, hoặc tu pháp Thần Tài”.

“Khi ấy, em rất mê tiền, một lòng chỉ muốn kiếm nhiều tiền, vì thế mà tin lời cô ấy, theo cô ấy đi thụ quán đỉnh Hoàng thần tài, rồi còn bỏ ra 10 vạn đồng để thỉnh một bức tượng Hoàng thần tài về thờ cúng”.

“Từ đó về sau, chỉ cần có bất cứ loại quán đỉnh nào của Mật tông Tây Tạng, cô ấy đều mời em cùng đi tham dự”.

“Bởi vì họ nói với em rằng, nếu thực hiện đại cúng dường cho Thượng sư Nhân Ba Thiết (Rinpoche), thì Nhân Ba Thiết sẽ đem số tiền tài đó đi hoằng pháp ở các nơi trên thế giới, công đức này rất lớn”.

“Em nghĩ bụng, tiền cúng dường là để đi hoằng pháp, không phải là để đút vào túi riêng của Nhân Ba Thiết, như thế thì có thể giúp đỡ chúng sinh, cho nên sau mỗi lần quán đỉnh, em đều cúng dường thật lớn”.

“Dần dà, em và vị trụ trì của Trung tâm Thu Trực Nhân Ba Thiết càng ngày càng thân thiết. Các Lạt Ma của Trung tâm cũng đều coi em là đại công đức chủ, đối xử với em đặc biệt lễ nghĩa tôn trọng”.

“Trong thời gian này, họ thường đem các danh mục ra để mời gọi em quyên tiền, hoặc nói để giúp em tu pháp nào đó, tiêu trừ nghiệp chướng của em, để gia đình em được hòa lạc”.

“Em đều dối chồng mình, tận khả năng để đem tiền ra cúng dường”.

“Khi Thu Trực Nhân Ba Thiết đến Đài Loan, em thường mời ông ấy đi khách sạn lớn chiêu đãi tiệc thịt dê, còn gọi rượu vang đỏ loại thượng đẳng”.

“Kỳ thực, lúc ấy em cũng từng có nghi ngờ, vì sao Nhân Ba Thiết và các Lạt Ma đều không ăn chay, ngược lại mỗi bữa đều ăn thịt, hơn nữa còn uống rượu”.

“Các Lạt Ma trả lời rằng: ‘Chúng tôi ăn thịt chúng sinh, chúng sinh sẽ kết duyên với chúng tôi, sau này chúng tôi có thể độ họ thành Phật’”.

“Còn Nhân Ba Thiết thì trả lời rằng: ‘Ngay khi đang ăn thịt chúng sinh, thì tôi đã dùng pháp Thiên Thức để dẫn độ chúng sinh đến tịnh độ Ô Kim rồi’, ‘Khi tôi đang uống rượu, tôi đã biến rượu thành cam lộ rồi, cho nên cái mà chúng tôi uống là cam lộ, không phải là rượu’”.

Lạt Ma ăn thịt

“Sau này, có một lần, sau khi quán đỉnh xong, trụ trì của Trung tâm Thu Trực Nhân Ba Thiết công khai tuyên bố em là Không Hành Mẫu, từ đó về sau, mọi người đều không còn trực tiếp gọi tên em nữa, mà gọi em là Không Hành Mẫu”.

“Khi đó, em không biết rằng đó chính là sự khởi đầu đại họa của đời em, còn dương dương tự đắc vì mình đã trở thành một vị Không Hành Mẫu”.

“Vào trưa một ngày nọ cách đây ba tháng, em nhận được điện thoại từ Lạt Ma ở Trung tâm gọi đến, nói Nhân Ba Thiết muốn dành cho em một lễ quán đỉnh đặc biệt, mời riêng mình em đến Trung tâm một chuyến”.

“Em không chút nghi ngờ, tự lái xe đi, bởi vì em có chìa khóa của Trung tâm, cho nên tự lái xe vào trong. Vào trong Trung tâm, không thấy các Lạt Ma khác đâu cả, chỉ có mình Nhân Ba Thiết ở trong phòng đang lầm rầm tụng chú”.

“Thu Trực Nhân Ba Thiết nhìn thấy em, đưa mắt bảo em ngồi xuống trước mặt ông ấy”.

“Đợi Nhân Ba Thiết tu pháp xong, ông ấy nói với em rằng, vì em là Không Hành Mẫu chí cao vô thượng, cho nên có tư cách hợp tu đại định hòa hợp với ông ấy, để đạt đến cảnh giới Lạc Không bất nhị”.

“Em xưa nay chưa từng nghe đến đại định hòa hợp là cái gì, Lạc Không bất nhị là cái gì, còn cho rằng Nhân Ba Thiết muốn truyền pháp tu thiền định cho em”.

“Sau đó, Nhân Ba Thiết bảo em cởi bỏ hết quần áo. Lúc ấy, em cảnh giác cảm thấy có gì đó không ổn, bèn quay người muốn ra khỏi cửa phòng, nhưng không biết Nhân Ba Thiết đã chặn ở cửa phòng từ lúc nào, và bắt đầu động chân động tay với em”.

“Em ra sức giãy giụa và kêu cứu, nhưng không có ai đến giúp đỡ. Khi đó, em mới hiểu tại sao Trung tâm không có vị Lạt Ma nào”.

Tiêu đề một bài báo: Lâm Lạt Nhân Ba Thiết của Mật tông cưỡng ép phu nhân Viện sĩ Viện nghiên cứu Trung ương nuốt tinh dịch

Xảo San kể liền một mạch đến đây, đã khóc nấc không thành tiếng nữa. Niệm Huyên nhìn cô ấy bằng ánh mắt thương xót, lúc đó cũng không biết phải nói gì mới phải. Đợi Xảo San bĩnh tâm lại một chút, lại tiếp tục kể chuyện:

“Đến lúc em quần áo xộc xệch rời khỏi Trung tâm, em không dám về nhà mà lái xe chạy lòng vòng quanh thành phố một cách vô định”.

“Bởi vì Nhân Ba Thiết đã cảnh báo với em rằng, không được đem chuyện này nói với bất kỳ ai, nếu không thần hộ pháp sẽ đến tru sát em”.

“Mãi cho đến lúc con em tan học, em mới xốc lại tinh thần để đi đón con về nhà”.

“Từ hôm đó trở đi, đêm nào em cũng mơ thấy ác mộng, mơ thấy trong màn đen tối có một người nhìn không rõ hình đang đuổi theo em, bất kể em chạy thật lực như thế nào, cũng vẫn không thoát được người đó”.

“Chồng em cũng phát hiện sự bất thường của em, do bị anh ấy hỏi dồn ép buộc, em đành phải nói ra chân tướng sự thật cho anh ấy”.

“Sau khi nói ra sự thật, em có cảm giác như trút được gánh nặng, nhưng cũng là lúc gia đình bắt đầu rạn nứt”.

Tiêu đề một bài báo đăng trên tờ Thời báo Tự Do ngày 24.7.2007:Xâm hại tình dục ni cô, Lâm Lạt Nhân Ba Thiết bị khởi tố

Niệm Huyên thương xót cho cô học trò của mình phải chịu nỗi tổn thương như vậy, đôi mắt bất giác vằn lên tia máu, trong lòng muốn làm gì đó để giúp Xảo San thoát khỏi giai đoạn đau thương này. Cô nói:

“Hoàn cảnh của em rất đáng được thông cảm, nhưng vì sao chồng em không đi tìm tay Nhân Ba Thiết đó để đòi lại công bằng vậy?”.

Xảo San đáp rằng:

“Hôm sau sau khi anh ấy biết được chân tướng sự việc, đã đến Trung tâm để tìm Thu Trực Nhân Ba Thiết để nói lý, nhưng các Lạt Ma của Trung tâm nói rằng Nhân Ba Thiết đã về Nepal bế quan rồi, trong thời gian ngắn sẽ không đến Đài Loan nữa”.

Niệm Huyên nói:

“Lại là cái chiêu này, bế quan bế kiếc gì? Trốn mất tăm rồi! Kỳ thực, em biết không? Các vụ việc nữ tín đồ Mật tông Tây Tạng bị xâm hại tình dục cũng có lúc thấy đưa tin, đó là những vụ việc bộc phát công khai, còn những vụ bị hại ngầm không tiết lộ như em thì không biết là có bao nhiêu nữa?”.

Biểu lộ kinh ngạc trên khuôn mặt của Xảo San đã cho thấy, cô hoàn toàn không biết gì về chân tướng của các vụ án Lạt Ma xâm hại tình dục…

Ghi chép: Tiểu Chuyết

Bài viết này lấy nguồn từ Blog Độc Hưởng Bôi

http://www.lamatruth.com/fanti/?type=detail&id=1300

 

Từ khóa: Không Hành Mẫu, Mật tông Tây Tạng, pháp Thần Tài, Thượng sư, Lạt Ma, Nhân Ba Thiết, Lạc Không bất nhị

 

Trước đó: LỤC TỰ ĐẠI MINH CHÚ LÀ TÀ DÂM CHÚ CỦA YÊU MA QUỶ QUÁI

Tiếp theo: NHỮNG LỜI TỐ CÁO KHIẾN NGƯỜI TA KHÓ CHẤP NHẬN VỀ NGÔI CHÙA VÙNG LODÈVE

trang chủ

lượt xem trang: 1607


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg