The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  LẠT MA NHÂN BA THIẾT Ở PARIS(2)

 Phật đường im phăng phắc... Sogyal Rinpoché lại tiếp tục nói: "Có thể nói ra chuyện này trước mặt mọi người, đó là một sự thổ lộ vô cùng dũng cảm, những tiếng vỗ tay đồng tình hãy nổi lên cho chúng ta và người đã kể ra hai câu chuyện về bệnh ái nhi tội lỗi này".

Đến buổi tối, Trung tâm thông báo: "Người đàn ông tự thuật chuyện mình đã rời đi rồi" và "sau này sẽ có người chuyên trách đến chăm sóc ông ấy".

Buổi tối, các đệ tử tách riêng ra thảo luận. Các đệ tử tu hành lâu nhất sẽ dẫn dắt các đệ tử mới thảo luận và phân tích. Họ thảo luận vì sao có người lại có cảm giác phẫn nộ đối với khóa tu thiền lần này.

Một nữ đệ tử tu hành trên 60 năm chậm rãi nói với cô gái trẻ tuổi đang chảy nước mắt: "Cô có phản ứng cảm giác mãnh liệt như vậy, điều này rõ ràng là rất thú vị, nhưng tôi thì lại 'bát phong bất động'. Đối với tôi mà nói, cho dù là những câu chuyện ghê gớm hơn nữa thì tôi cũng không động lòng".

Cứ như vậy, sang ngày hôm sau, mọi người đều nhanh chóng quên đi sự kiện "về người Hà Lan tự thuật chuyện mình".

Mọi người đều rất yên lặng, lắng nghe đại sư đánh rắm!

5 ngày đã trôi qua. Mỗi người đều lấy việc chuyên tâm thuần phục cái tâm không vui vẻ này làm mục đích. Phương pháp này có thể đánh thức vị Phật trong tâm mỗi người. Để đạt đến mục tiêu này, mọi người phải học tập theo lời giáo huấn của Rinpoché, bởi vì đây hẳn là pháp môn duy nhất.

Khi đại sư nói rất rõ ràng, mọi người đều có thể hiểu được nguyên tắc cơ bản của tĩnh tọa. Các đệ tử đều rất vui mừng rửa tai lắng nghe, đó chính là mục đích vì sao họ đến đây. Trên Phật đường là một cảnh tượng hết sức tĩnh lặng, mọi người đều lắng nghe sự tĩnh lặng trong nội tâm, và cảm nhận sự tĩnh lặng trong lòng do tâm định đem tới. Nhưng rất rõ ràng rằng, khoảng thời gian này quá ngắn, vị đại sự của chúng ta lại nhanh chóng biến thành một anh hề Tây Tạng. Ông ấy bắt đầu mô phỏng tiếng đánh rắm, hoặc mô phỏng tiếng rung phát ra từ chiếc máy mát xa. Hoặc có lúc trong thời gian tu thiền, vị đại sư của chúng ta lại có phần lớn thời gian lạnh nhạt với học viên của mình, chỉ vì ông ấy ngứa lưng mà gãi không đúng chỗ ngứa.

Trong lúc ăn trưa, các học viên chia sẻ với nhau ấn tượng của mình đối với đại sư. Các đệ tử tu hành lâu ngồi xen giữa các đệ tử mới vào. Các đệ tử tu lâu nêu ra những ý kiến chính xác, họ nói: "Cái ngộ quan trọng nhất là không được 'chống lại' những lời dạy của đại sư. Chỉ có những học viên không ngừng phụng hiến thì mới có thể kết nối thực sự được với Rinpoché về mặt tâm linh".

Họ còn giải thích rõ thêm rằng: "Tất cả hãy làm theo giáo nghĩa, không nên nghĩ quá nhiều".

Nói một cách khác, vị đại sư này đối với các đệ tử mà nói, thì là: Ta là sếp của anh, ta cũng là chủ nhân của anh, tất cả mọi việc anh phải nghe lời ta.

Vào đầu tuần này, đại sư nhấn mạnh trọng điểm nằm ở giao tiếp - kết nối. Nhưng kể từ ngày thứ tư trở đi, đại sư đột nhiên lại thay đổi chủ ý, đồng thời đề nghị hủy cuộc hội thảo vào buổi chiều, ông cho rằng hội thảo không có ích gì.

Đại sư cũng đề nghị với các học viên mới đến rằng: "Không nên hỏi quá nhiều vấn đề, khi đứng trước mặt đại sư, các anh chị hãy trầm tư, lắng nghe âm thanh của đại sư, bởi vì âm thanh này có pháp lực đặc biệt. Âm thanh này có thể cầu phúc cho anh, đặc biệt là khi mà tâm anh không an định".

Sogyal Rinpoché nói rõ ràng rằng, pháp môn âm thanh của ông ấy đã được chứng minh là rất có hiệu quả. Ông ấy còn nói với các học viên rằng, pháp môn âm thanh của ông ấy đã từng chữa lành cho một số đệ tử mắc bệnh ung thư hoặc khôi phục thị lực cho họ. Bởi vì pháp môn âm thanh này đều có được gia trì bằng thần lực của Sogyal Rinpoché.

Đại đa số các đệ tử đều đồng ý tuân theo đề nghị của đại sư. Dù sao họ đã bỏ ra một cái giá rất lớn, họ đều hy vọng đạt được lợi ích lớn nhất từ trong trải nghiệm tu thiền lần này.

Học viên = máy rút tiền ngân hàng của đại sư

Học viên trẻ tuổi nhất (thường là nghèo rớt mùng tơi), họ đã bỏ ra 500 euro để có thể được nghe lời dạy của đại sư, lại được hưởng thụ các món ăn (mỗi bữa ăn trừ rau ra thì toàn là rau). Trung tâm còn cho phép họ dựng lều ở sân bóng trong rừng. Thế nhưng, bên cạnh toa lét trên sân bóng trong rừng đó có rất nhiều muỗi, vì thế mà tất cả các lều đều dựng cách xa toa lét. Với khoảng cách xa như thế, nó đã khiến cho tất cả những người muốn đi toa lét vào ban đêm đều tựa như một dũng sĩ viễn chinh trèo đèo vượt núi. Ngoài ra, nhiều cơn mưa vào buổi tối và cái lạnh thấp hơn 7 độ (Trung tâm nằm ở độ cao 850 mét so với mặt biển) cũng khiến cho những đệ tử giàu nghị lực nhất không thể không đề nghị rời đi. Vào buổi tối thứ sáu, một cô gái người Pháp đã chọn chỗ ngủ trên con đường mà Sogyal Rinpoché sẽ phải đi qua, cô đã yêu cầu đại sư cho mình một chỗ ngủ thoải mái. Hành vi bất chấp tất cả và những vết thâm quầng dưới mắt của cô ấy đã làm đại sư cảm động. Đại sư mời cô ấy đến qua đêm ở biệt thự riêng tại địa phương vào đêm hôm sau... Đến lúc đó thì dường như tất cả các cô gái có mặt ở đấy đều nắm chặt tay nghĩ thầm tại sao mình lại không áp dụng cách tương tự như thế...đành phải chấp nhận nộp thêm mấy trăm euro để nhờ Trung tâm thuê hộ một căn nhà gỗ nhỏ qua đêm, chứ không để mình chịu lạnh cóng trong lều nữa.

Các học viên còn phải tham gia các nhiệm vụ thường nhật của chùa nữa. Cái này được gọi là nhiệm vụ "chuyển Pháp luân". Các học viên tu hành lâu nhất đều không chút do dự, lập tức đứng dậy đi quét dọn toa lét. Những người khác thì càng nguyện mong chìa bàn tay hỗ trợ làm kế toán. Với cái giá thấp nhất là 500 euro nhân với 2000 hoặc 3000 người hâm mộ, tính toán mức thấp nhất, thì mỗi khóa tu thiền này có thể đem lại cho Trung tâm từ một triệu đến một triệu rưỡi euro.

Đương nhiên là các học viên còn có thể đóng góp nghĩa vụ bằng cách mua các đồ từ cửa hàng Phật cụ của Trung tâm. Trong cửa hàng này, anh có thể mua được sách và tranh ảnh của đại sư. Đương nhiên, chỗ này cũng đem lại cơ hội cho đại chúng, để mọi người thưởng thức tài nghệ kinh doanh của các tín đồ Phật giáo, để mọi người biết rằng các tín đồ Phật giáo cũng không hề thiếu ý thức kinh doanh. Nào là cốc Trung tâm Phật đường Lerab, đệm ngồi đả tọa của Lerab, cả cái áo phông có dòng chữ "Tôi muốn tĩnh tọa", ngoài ra, mọi người cũng có thể tìm được những đồ kỷ niệm và sách Phật khác nữa.

Mỗi lần khi pháp hội tu thiền kết thúc, mỗi học viên thông thường sẽ tiêu tốn khoảng 70 euro để mua đồ kỷ niệm đem về nhà. Trong thời gian tu thiền, mỗi học viên đều tận sức cống hiến tiền mặt của mình, tổng kết thu hoạch sau một tuần là: Ngoại trừ những đồ kỷ niệm đem về nhà ra, còn có việc mỗi ngày đả tọa giữ cho đầu óc tĩnh lặng, rồi nghe Sogyal Rinpoché thuyết pháp. Về pháp của Sogyal Rinpoché, đại khái có thể quy nạp bằng một câu đơn giản thế này: "Phải tiếp tục a dua phụng thờ Sogyal Rinpoché".

Nhưng cho đến nay, những tiếng oán thán mà chúng ta nghe được vẫn còn rất ít...

Tất cả những cái tên trên đây đều đã được sửa đổi (trừ tên của Sogyal Rinpoché).

Nghề nghiệp: Nô lệ của đại sư

Tháng 11 năm 1994, Janice Doe (đã đổi tên) đã kiện và tố cáo Sogyal Rinpoché có hành vi "ngược đãi tình dục, tinh thần và thân thể" đối với một phụ nữ. Chuyện này cuối cùng đã được hòa giải bằng tiền ngoài tòa án. Cho đến nay thì không có thêm vụ kiện nào mới, nhưng trên các diễn đàn mạng quốc tế thì đầy rẫy các bài viết của các học viên khác nhau đã rời bỏ Sogyal Rinpoché. Họ đều nhất trí không tán đồng các hành vi của Sogyal Rinpoché. Daniel Genty là người sáng lập blog "Con đường tinh thần", blog của anh ấy còn gọi là "Phương thức của linh hồn". Vào tháng 10 năm 2007, anh ấy cho đăng một đoạn trích dẫn từ "Tử thư Tây Tạng". Điều anh ấy không ngờ là, đoạn trích dẫn này có đến không dưới 462 lời bình luận hồi đáp. Trong đó, có không ít hồi đáp chỉ trích vị lãnh tụ tinh thần to lớn này, đó chính là vị đại sư của núi Lerab.

Tây Tạng có truyền thống xưng hô về Rinpoché (Nhân Ba Thiết), đây là di sản truyền thống cuồng tín "Thánh nhân", là tiêu chuẩn không phù hợp ở thế giới phương Tây, bởi vì tất cả các hoạt động của Rinpoché, bao gồm cả hành vi tình dục, đều được cho là có thể dẫn dắt học viên minh tâm khai ngộ. (Chi tiết xin xem phỏng vấn chuyên đề với nghiên cứu sinh tiến sĩ Nhân loại học Marion Dapsance).

Có một người khá thân cận với đại sư nói: "Đại sư tựa như một đống lửa, nếu như anh đứng cách xa một chút thì sẽ cảm thấy lạnh lẽo, nhưng nếu anh tiến lại quá gần thì sẽ bị ông ấy đốt cháy". Mimi, một người làm trợ lý công việc cá nhân cho đại sư 3 năm, cô ấy thuộc về nhóm những người bị đốt cháy. Mimi nói: "Công việc của tôi là phục mệnh cạnh đại sư, quét dọn, thay thuốc, truyền lệnh cho người khác. Hàng ngày tôi đều ngủ dưới chân giường của ông ấy, đó là đại sư yêu cầu tôi ngủ dưới chân giường ông ấy đấy. Tôi phải phục mệnh chuẩn bị tất cả mọi thứ...Đợi lệnh bên cạnh ông ấy không phải là chuyện dễ dàng gì. Mỗi lần Rinpoché đi ra ngoài, cần phải huy động mấy chục người, đồng thời phải tuân theo quy định nghi thức của hoàng gia Anh. Những thị giả có đặc quyền đó đều phải hành động dựa trên các quy tắc mười mấy trang, ví dụ như phải đảm bảo trên xe có đầy đủ thức ăn và đồ uống. Ngoài ra, phải đảm bảo chắc chắn rằng trước khi Rinpoché đến thì phải chuẩn bị đi mở cửa. Ông ta còn yêu cầu trên thực đơn nhất định phải có thịt bò (Đại sư Rinpoché của chúng ta không phải là người theo chủ nghĩa ăn chay, ông ấy rất thích ăn thịt bò), hay như chỗ ngồi bên tay lái nhất định phải để trống...Những yêu cầu quy tắc này đúng là không có giới hạn gì cả".

Mimi nói tiếp: "Chế độ này được thực hiện qua 4 tháng, mọi người đều mệt nhoài, không còn có cả thời gian để suy nghĩ nữa. Có một hôm, ông ta yêu cầu tôi cởi sạch quần áo. Tôi coi chuyện này như là một khảo nghiệm cao cấp mà tôi dâng hiến cho Rinpoché". Cái "khảo nghiệm" này, Rinpoché từng nói đó là một cơ hội rất tốt để minh tâm khai ngộ, cho nên cô ấy không tiếc bằng mọi giá phải giữ bí mật câu chuyện này. Đến nay, cô ấy đã khẳng định là đã từ bỏ Rinpoché, cho nên vị nữ đệ tử này đã quyết định công bố ra đại chúng.

Cô ấy đứng ra làm chứng về việc Rinpoché lạm dụng quyền lực. Sự chứng kiến của cô ấy trở thành một phần của phim tài liệu "Xâm hại tình dục dưới danh nghĩa khai ngộ". Bộ phim tài liệu này do Deb Goodwin làm đạo diễn, từng phát trên kênh Vision TV của Canada ngày 23.5.2011.

Mimi hiện đang viết một cuốn tự truyện nói về thời gian tu học Phật giáo Tạng truyền

Trung tâm của Sogyal Rinpoché hồi đáp rằng, Sogyal Rinpoché không phải là một vị hòa thượng, cho nên ông ấy có quyền thực hiện hành vi tình dục. Các nữ đệ tử của ông ấy, nếu như tình nguyện thì đều có thể lên giường với ông ấy. Tất cả những gì mà đại sư làm đều là vì muốn đem lại cho họ một hy vọng minh tâm khai ngộ, để các nữ đệ tử thông qua pháp môn phương tiện này có thể trực tiếp thành Phật. Các nữ đệ tử nếu như không hiểu được rằng họ đã may mắn như thế nào, thì có nghĩa là họ có ngã chấp và nghiệp chướng quá nặng. Đó là điều vô cùng đáng tiếc và bất hạnh.

Toàn văn bài báo tiếng Pháp ở đây:

https://www.marianne2.fr/Le-lama-Rinpoche-a-Paris-pas-si-zen-ces-bouddhistes_a211593.html

 

Từ khóa: Phật giáo Tạng truyền, Lạt Ma, Nhân Ba Thiết, Sogyal Rinpoché, Đạt Lai Lạt Ma, Tây Tạng

 

Trước đó: SHANGRILA: THIÊN ĐƯỜNG CHƯA TỪNG TỒN TẠI

Tiếp theo: LỤC TỰ ĐẠI MINH CHÚ “OM MA NI BÁT MÊ HỒNG” CỦA MẬT GIÁO CÓ Ý NGHĨA GÌ?

trang chủ

lượt xem trang: 1510


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg