The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  BIỆN PHÁP QUẢN LÝ SỰ CHUYỂN THẾ CỦA PHẬT SỐNG TRONG PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀN

 

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ SỰ CHUYỂN THẾ CỦA PHẬT SỐNG TRONG PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀN

LỆNH CỤC SỰ VỤ TÔN GIÁO QUỐC GIA

SỐ 5

“Biện pháp quản lý Phật sống chuyển thế trong Phật giáo Tạng truyền” đã được Hội nghị công tác của Cục Sự vụ tôn giáo Quốc gia thông qua ngày 13/07/2077, nay tiến hành công bố và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/09/2007.

Cục trưởng Diệp Tiểu Văn

Ngày 18 tháng 07 năm 2007

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ SỰ CHUYỂN THẾ CỦA PHẬT SỐNG

TRONG PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀN

Điều 1: Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân, tôn trọng phương thức kế vị truyền thừa Phật sống của Phật giáo Tạng truyền, để quy phạm quản lý sự vụ chuyển thế của Phật sống, căn cứ “Điều lệ sự vụ tôn giáo”, nay chế định Biện pháp này.

Điều 2: Việc chuyển thế của Phật sống cần phải tuân thủ nguyên tắc bảo vệ sự thống nhất quốc gia, bảo vệ đoàn kết dân tộc, bảo vệ hòa hợp tôn giáo và hài hòa xã hội, bảo vệ trật tự bình thường của Phật giáo Tạng truyền.

Việc Phật sống chuyển thế phải tôn trọng các nghi quỹ tôn giáo và các chế định lịch sử của Phật giáo Tạng truyền, nhưng không được phép khôi phục đặc quyền phong kiến đã bị phế bỏ trước đây.

Việc chuyển thế của Phật sống không chịu sự can thiệp và chi phối của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào ngoài lãnh thổ Trung Quốc.

Điều 3: Sự chuyển thế của Phật sống cần phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:

1. Đa số quần chúng tín giáo và tổ chức quản lý tự miếu (chùa chiền) địa phương yêu cầu chuyển thế.

2. Hệ thống chuyển thế phải là có thật và truyền thừa cho đến ngày nay.

3. Ngôi chùa xin phép để Phật sống chuyển thế là ngôi chùa sở tại có tăng tịch của Phật sống dự tính sẽ chuyển thế, và phải là cơ sở hoạt động Phật giáo Tạng truyền đăng ký hợp pháp, có đầy đủ năng lực bồi dưỡng và cúng dường cho Phật sống chuyển thế.

Điều 4: Phật sống xin chuyển thế nếu gặp một trong các trường hợp sau thì không đươc phép chuyển thế:

1. Giáo nghĩa Phật giáo Tạng truyền quy định không được chuyển thế.

2. Chính quyền nhân dân từ cấp thành phố có chia khu (chia quận) trở lên có lệnh rõ ràng không cho phép chuyển thế.

Điều 5: Việc chuyển thế của Phật sống cần phải tiến hành thủ tục xin báo cáo và phê chuẩn. Trình tự xin báo cáo và phê chuẩn như sau: Tổ chức quản lý chùa sở tại có tăng tịch của Phật sống sẽ chuyển thế hoặc Hiệp hội Phật giáo địa phương làm đơn xin chuyển thế đến Ban sự vụ tôn giáo của Chính quyền nhân dân cấp Huyện đất sở tại. Sau khi Chính quyền nhân dân cấp Huyện có ý kiến, thì Ban sự vụ tôn giáo của Chính quyền nhân dân sẽ báo lên trên theo từng cấp, và cuối cùng do Ban sự vụ tôn giáo Chính quyền nhân dân Tỉnh, Khu tự trị phê chuẩn. Trong đó, vị Phật sống có ảnh hưởng tương đối lớn trong giới Phật giáo thì báo cáo Chính quyền nhân dân Tỉnh, Khu tự trị phê chuẩn. Nếu là Phật sống có ảnh hưởng trọng đại, thì báo Cục Sự vụ tôn giáo Quốc gia phê chuẩn. Nếu là Phật sống có ảnh hưởng đặc biệt trọng đại, thì báo Quốc vụ viện (Chính phủ) phê chuẩn.

Khi thẩm định phê chuẩn đơn xin chuyển thế Phật sống, cần phải trưng cầu ý kiến của Hiệp hội Phật giáo tương ứng.

Điều 6: Nếu có tranh chấp về ảnh hưởng lớn nhỏ khác nhau của Phật sống, thì Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc (chủ trì) xác định và báo cáo Cục Sự vụ tôn giáo Quốc gia lưu hồ sơ.

Điều 7: Sau khi đơn xin chuyển thế cho Phật sống được phê chuẩn, căn cứ vào mức độ ảnh hưởng lớn nhỏ của Phật sống, thì Hiệp hội Phật giáo tương ứng sẽ thành lập một tiểu ban chỉ đạo chuyển thế; Còn tổ chức quản lý chùa sở tại có tăng tịch của Phật sống sẽ chuyển thế hoặc Hiệp hội Phật giáo tương ứng sẽ thành lập tiểu ban tìm kiếm linh đồng chuyển thế và thực hiện công việc tìm kiếm dưới sự chỉ dẫn của tiểu ban chỉ đạo.

Linh đồng chuyển thế sẽ do Hiệp hội Phật giáo Tỉnh, Khu tự trị hoặc Hiệp hội Phật giáo Quốc gia căn cứ vào nghi quỹ tôn giáo và chế định lịch sử để xác nhận.

Bất kỳ đoàn thể hoặc cá nhân nào cũng không được tự ý thực hiện hoạt động có liên quan đến tìm kiếm và xác nhận linh đồng chuyển thế của Phật sống.

Điều 8: Phật sống đã từng đươc xác nhận bằng việc xóc thẻ bình vàng trong lịch sử, thì việc xác nhận linh đồng chuyển thế của vị ấy cũng phải được tiến hành xóc thẻ bình vàng.

Trường hợp có thỉnh cầu xin miễn xóc thẻ bình vàng, thì Ban sự vụ tôn giáo của Chính quyền nhân dân Tỉnh, Khu tự trị phải báo cáo Cục Sự vụ tôn giáo Quốc gia phê chuẩn. Nếu là trường hợp Phật sống có ảnh hưởng đặc biệt trọng đại, thì phải báo Quốc vụ viện phê chuẩn.

Điều 9: Sau khi xác định được linh đồng chuyển thế của Phật sống, thì phải báo Ban sự vụ tôn giáo Chính quyền nhân dân Tỉnh, Khu tự trị phê chuẩn. Nếu là Phật sống có ảnh hưởng tương đối lớn trong giới Phật giáo thì báo cáo Chính quyền nhân dân Tỉnh, Khu tự trị phê chuẩn; Nếu là Phật sống có ảnh hưởng trọng đại, thì báo cáo Cục sự vụ tôn giáo Quốc gia phê chuẩn; Nếu là Phật sống có ảnh hưởng đặc biệt trọng đại, thì báo cáo Quốc vụ viện phê chuẩn.

Phật sống chuyển thế (sau khi) được Ban sự vụ tôn giáo Chính quyền nhân dân Tỉnh, Khu tự trị hoặc do Chính quyền nhân dân Tỉnh, Khu tự trị phê chuẩn, cần báo cáo Cục Sự vụ tôn giáo Quốc gia lưu hồ sơ.

Điều 10: Khi Phật sống chuyển thế (tiến hành nghi lễ) kế vị, thì đại diện cơ quan phê chuẩn đến tuyên đọc công văn phê chuẩn và Hiệp hội Phật giáo tương ứng phát giấy chứng nhận Phật sống.

Thể thức (mẫu) giấy chứng nhận Phật sống do Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc thống nhất chế tạo và báo cáo Cục Sự vụ tôn giáo Quốc gia lưu hồ sơ.

Điều 11: Trường hợp vi phạm Biện pháp này, tự ý thực hiện các công việc chuyển thế của Phật sống, thì Ban sự vụ tôn giáo Chính quyền nhân dân chiểu theo quy định trong “Điều lệ sự vụ tôn giáo” tiến hành xử phạt hành chính đối với cá nhân và đơn vị chịu trách nhiệm. Nếu cấu thành phạm tội, thì truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Điều 12: Phật sống chuyển thế sau khi kế vị, thì tổ chức quản lý chùa sở tại có tăng tịch của vị ấy cần phải lập kế hoạch bồi dưỡng, tiến cử thày dạy, sau khi được Hiệp hội Phật giáo đất sở tại thẩm định, thì báo cáo từng cấp lên Ban sự vụ tôn giáo Chính quyền nhân dân Tỉnh, Khu tự trị phê chuẩn.

Điều 13: Tỉnh, Khu tự trị có liên quan đến sự vụ chuyển thế của Phật sống có thể căn cứ vào Biện pháp này để chế định các quy định thi hành chi tiết, và báo cáo Cục Sự vụ tôn giáo Quốc gia lưu hồ sơ.

Điều 14: Biện pháp này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 09 năm 2007.

http://www.gov.cn/flfg/2007-08/02/content_704414.htm

 

Từ khóa: Phật sống, Phật giáo Tạng truyền, Hiệp hội Phật giáo, Khu tự trị

 

Trước đó: DƯỚI ÁP LỰC VỤ BÊ BỐI TÌNH DỤC, LÃNH TỤ CỦA RIGPA TUYÊN BỐ TỪ CHỨC

Tiếp theo: CUỘC PHỎNG VẤN CỰU GIÁM ĐỐC CỦA SOGYAL RINPOCHE

trang chủ

lượt xem trang: 1511


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg