The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  CUỘC PHỎNG VẤN CỰU GIÁM ĐỐC CỦA SOGYAL RINPOCHE

 

CUỘC PHỎNG VẤN CỰU GIÁM ĐỐC CỦA SOGYAL RINPOCHE

Thực hiện phỏng vấn: Élodie Emery

Ngày 09.03.2016

Dưới đây là nội dung cuộc phỏng vấn với ông Olivier Raurich, cựu giám đốc của Sogyal Rinpoche tại Trung tâm Phật giáo Bản Giác Rigpa:

Phóng viên: Xin hỏi, ông bắt đầu có quan tâm đến Phật giáo từ lúc nào, và quen biết ông Sogyal Rinpoche từ lúc nào?

Olivier Raurich: Trước kia tôi học khoa Toán tại Học viện cao đẳng sư phạm (l’ecole normale superieure) ở Rue d’Ulm, hy vọng sau này có thể trở thành nhà nghiên cứu khoa học. Vào năm 24 tuổi, vì có lần vấp phải rủi ro về sinh tồn nên đã khiến tôi bắt đầu tìm hiểu về tâm linh. Khi tôi vừa tiếp xúc với Phật giáo, tôi rất thích khái niệm “nghiệm chứng xác nhận bằng kinh nghiệm bản thân”. Lúc mới bắt đầu thì chẳng có liên quan gì đến tín ngưỡng, nhưng thông qua đả tọa, mặc tưởng tôi đã có được nhiều lợi ích. Tôi bắt đầu tham gia một số buổi tọa đàm, từ đó mà gặp được ông Sogyal Rinpoche. Ông ấy biết nói tiếng Anh và dẫn dắt được sự hồi đáp. Mấy năm sau, ông ấy khen rằng tôi làm việc rất mẫn cán, năng lực tiếng Anh lại rất tốt, thế là tôi trở thành người phiên dịch cho ông ấy tại Pháp. Tuy nhiên, giữa chúng tôi không có bất kỳ mối quan hệ riêng tư nào, bởi vì Sogyal Rinpoche nhanh chóng thực hiện quyền kiểm soát tuyệt đối. Ông ấy là Thượng sư, rất khó thân cận và lại rất dễ cáu giận, tất cả đều chỉ là chấp hành chỉ thị của ông ấy, chỉ có vậy thôi.

Phóng viên: Vì vậy mà ông có may mắn tận mắt chứng kiến sự thành danh của ông ấy và thành công nhanh chóng của Rigpa phải không?

Olivier Raurich: Mấy năm gần đây, với tư cách là thày dạy tu thiền và là giám đốc của Rigpa, quả thực là tôi ngày càng sôi nổi. Tôi đã mấy lần tham gia tiết mục “Trí tuệ của Phật pháp” trên kênh truyền hình số 2 của Pháp. Đồng thời tôi cũng vẫn tiếp tục công việc của một thày dạy toán, bởi vì ở Rigpa gần như tất cả mọi người đều là tình nguyện viên, có một số ít nhận được lương chức vụ nhưng với mức ít ỏi đến đáng thương. Bố thí là một phần trong giáo nghĩa của Phật giáo, cho nên tôi đương nhiên là vui lòng phục vụ miễn phí. Sau này, tôi cuối cùng đã hiểu ra, dưới cái cớ này, người phương Tây thực sự như con bò sữa bị vắt kiệt.

Trung tâm tu đạo Lerab Ling nằm ở L’Hérault nước Pháp, bắt đầu sử dụng từ năm 1992. Cùng năm đó, cuốn sách “Tử thư Tây Tạng” được xuất bản. Cuốn sách này do một học giả người Anh mà tôi vô cùng sùng bái, tài hoa lỗi lạc và khiêm nhường, ông Patrick Gaffney đã viết ra bản thảo dựa trên những nội dung chỉ đạo của ông Sogyal Rinpoche và các vị Thượng sư khác. Cuốn sách này đã trở thành sách bán chạy nhất trên toàn thế giới. Quần chúng bắt đầu theo đuổi (hâm mộ) ông Sogyal Rinpoche, người đã nổi lên như là một ngôi sao sáng của Phật giáo. Tôi cảm thấy vô cùng phấn khích, tôi cho rằng chúng tôi sẽ đem Phật giáo truyền bá đến khắp nơi.

Phóng viên: Với tư cách là người hâm mộ thân cận nhất của ông ấy, ông có từng cảm thấy kinh ngạc trước những ngôn hành của ông ấy không?

Olivier Raurich: Ông ấy là một người thuyết pháp rất có sức hút, nhưng điều khiến tôi cảm thấy kinh ngạc nhất là mâu thuẫn ngôn hành nói một đằng làm một nẻo của ông ấy. Ông ấy rất chuộng xa hoa, thời thượng, còn rất thích phim bạo lực của Mỹ nữa. Ông ấy hoàn toàn không có thích thú gì với bảo vệ sinh thái và các vấn đề xã hội. Ông ấy toàn toàn không cảm thấy xấu hổ đối với việc thổi phồng, khoác lác liên tục trước đại chúng (đám đông). Ông ấy ra ngoài đều ở các khách sạn hào hoa cao cấp, trên người đeo những sản phẩm công nghệ đắt đỏ nhất. Tôi thật khó có thể chấp nhận những hành vi này của ông ấy, bởi vì cùng lúc đó, thì vẫn có một số thành viên trong Rigpa rất nghèo. Khi truyền đạo, ông ấy tuyên xưng rằng mình đời này không cần phải rèn luyện gì cả, mà vẫn hiểu được thế nào là tri túc, giản dị và có thể buông bỏ. Trong suốt một khoảng thời gian dài, tôi đã nghĩ rằng hành vi của ông ấy là xuất phát từ sự hun đúc văn hóa xuất thân quý tộc Tây Tạng của ông ấy.

Ông ấy đối xử với tôi lúc nóng lúc lạnh, có lúc ông ấy vô cùng khen ngợi khả năng phiên dịch của tôi, nhưng có lúc lại sỉ nhục tôi trước mặt công chúng. Ông ấy thường rất hay hoành hành ngang ngược. Mãi cho đến khi có tin đồn rằng ông ấy đã cưỡng dâm các cô gái trẻ - không phải là thông qua bạo lực thân thể, mà là thông qua áp bức tinh thần cực lớn để khiến họ phải khuất phục. Những hành xử như thế mà lại được giải thích một cách đường hoàng là khái niệm “cuồng trí”, cho rằng các đại sư có thể thực hiện các loại hành vi (phương tiện thiện xảo), không phải thứ mà phàm phu tục tử có thể hiểu được.

Cái lý niệm (quan niệm) này có thể áp dụng thích hợp với tất cả mọi người – “Nếu như Thượng sư sỉ nhục anh, (ông ấy) có thể khiến anh dựa vào đó mà giải thoát chính mình, nhằm tịnh hóa các đệ tử), “không có hành vi nào vĩ đại hơn ý chí (hoặc dục vọng) của Thượng sư”…Đại loại kiểu như thế, về điểm này thì sách Tây Tạng truyền thống đều viết rất rõ.

Trước đây, tôi chủ yếu có hứng thú với dạy học Phật giáo. Tôi và đội ngũ giảng sư cùng thực hành chế độ thực tập và những công việc dạng này, muốn thực hiện thật xuất sắc việc truyền bá Phật pháp. Những việc trên đây đều là lý do khiến tôi ở lại lâu đến như vậy.

Phóng viên: Ông Sogyal Rinpoche vì sao không lo lắng? Vì sao Đạt Lai Lạt Ma chưa bao giờ có phản ứng gì?

Olivier Raurich: Đã từng liên tiếp xảy ra nhiều vụ khủng hoảng. Năm 1993, ở Mỹ từng có một vụ kiện cáo về quấy rối tình dục. Tiếp đến, có một số cựu học viên kể về câu chuyện của họ, rất nhiều người vì thế mà rời khỏi Trung tâm Rigpa, đặc biệt là vào năm 2000 và năm 2007.

Sau đó, vào năm 2011, có một bài viết được đăng trên Tạp chí “Marian”. Sau đó, Sogyal Rinpoche quyết định không tham gia khóa trình tịnh tu bế quan của học viên mới ở Lerab Ling nữa.

Có rất nhiều người bỏ đi rồi. Trung tâm Rigpa đã mời cơ quan chuyên nghiệp với giá cao ở Paris để xử lý đối phó khủng hoảng, đồng thời huấn luyện vài người phát ngôn đối ngoại, kể cả tôi cũng nằm trong số đó, nhằm phản ứng lại trước những cáo buộc về quấy rối tình dục và tài chính mờ ám. Chúng tôi được chỉ thị không nên trả lời bất kỳ vấn đề nào, chỉ cần liên tục nhắc lại những từ khóa giống nhau. Ngoài ra còn phải tận khả năng trích dẫn lời của Đạt Lai Lạt Ma để làm chi viện về mặt tinh thần.

Phóng viên: Đạt Lai Lạt Ma trong các cuốn sách (“Quan hệ đạo đức giữa thày trò” xuất bản năm 1993, (Đây là đối thoại giữa Đạt Lai Lạt Ma và học giả), “Chữa trị phẫn nộ”, nhà xuất bản Snow Lion, năm 1997, trang 83-85) đã nói rõ ràng rằng hành vi sai lầm của sư phụ cần phải công khai rõ ràng trước đại chúng. Vì sao chính bản thân Đạt Lai Lạt Ma lại không làm được điều này?

Olivier Raurich: Theo suy đoán của tôi thì ông ấy không thể chất vấn công khai Sogyal Rinpoche, bởi vì như thế sẽ làm suy yếu địa vị của Phật giáo Tạng truyền. Sogyal Rinpoche đã sớm thành công trong việc biến mình thành một phần tử không thể thiếu khuyết trong quần thể người Tạng.

Phóng viên: Ông bắt đầu sinh nghi là vào lúc nào?

Olivier Raurich: Nhiều năm nay, tuy rằng có nghi vấn, nhưng tôi đều giữ lại trong lòng. Bởi vì trong thâm tâm vẫn còn hy vọng, Trung tâm Rigpa có thể chia sẻ với nhiều người nhất về trí tuệ bác đại tinh thâm, đem lại lợi ích cho cả xã hội. Thế nhưng, chiêu sinh hộ cho ông ấy càng ngày càng trở nên khó khăn, bởi vì hành vi của ông ấy có lúc đã trở nên rất quá đáng – rất có nghề, thậm chí ở chốn công cộng cũng vẫn như vậy. Tôi đã bắt đầu viết cuốn sách đầu tiên của tôi rồi, nhằm để giải thích trí tuệ Phật giáo chân thực, có thể hiện bày cho toàn thế giới, có thể thuận ứng với các quốc gia phương Tây, và phù hợp với chủ nghĩa nhân đạo.

Bắt đầu từ bài viết trên tạp chí “Marian”, tôi đã cảm nhận được tình thế căng thẳng ở địa vị lãnh đạo Trung tâm Rigpa đang nhanh chóng leo thang. Tất cả mọi bí mật và thao túng tin tức đều đè nặng lên người tôi. Tôi vốn dĩ vì muốn học khiêm tốn, yêu thương, chân lý và tín nhiệm nên mới đến đây, thế nhưng lại phát hiện mình rơi vào một hoàn cảnh tương tự như chủ nghĩa Stalin, nói những lời lẽ tự mâu thuẫn một cách thao thao bất tuyệt. Bộ mặt chủ nghĩa độc tài và phẫn nộ của ông ấy vẫn luôn biến hóa và gia tăng, còn tôi cảm thấy càng ngày càng bất an. Trong hội nghị, ông ấy ngăn cản người khác phát ngôn một cách ngay tắp lự và thô bạo, hoặc là cười giễu người khác. Ở bên ông ấy, thì tư tưởng phê phán hoàn toàn bị nghiêm cấm – cánh cửa đó luôn đóng chặt. Những hồi đáp tiêu cực mãi mãi sẽ không bao giờ đến được chỗ ông ấy. Chỉ có những âm thanh tán thán, khen ngợi thì mới được trình báo lên, bởi vì những người vòng trong bên ông ấy đều rất sợ ông ấy. Những tin tức tiêu cực sẽ chọc giận ông ấy, ông ấy cũng sẽ sỉ nhục những người thân cận mình. Khi mọi việc đều như ý, thì ông ấy cũng sẽ trở nên thân thiện và hài hước.

Vào năm 2014, trong một cuộc tụ hội của các cựu học viên, tôi đã quyết định rời bỏ. Bởi vì tôi đã nhìn thấu ông ấy – tôi đã nhìn thấy những lời nói dối hư giả của ông ấy. Trước mặt 800 học viên, ông ấy yêu cầu quyên góp khoản tiền lớn, đặc biệt phải là tiền mặt. Mỗi học viên đều phải viết tên mình trên phong bì thư, như thế thì ông ấy có thể kiểm tra số tiền. Ông ấy cũng tiếp tục nâng cao tầm kiểm soát đối với các học viên cố định. Nếu như học viên không tham gia bế quan, bọn họ sẽ bị bức đến mức cảm thấy tội lỗi, áp lực rất là lớn. Trong kho tư liệu máy tính của Hội Rigpa sẽ hiển thị danh tính những người tham gia các loại hoạt động, bao gồm cả bế quan, đào tạo và những lần tụ họp trước kia vân vân. Nếu như có một vị học viên không tham gia một hoạt động nào đó, thì anh ta phải nêu ra được lý do chính đáng. Nếu có một học viên nào rời bỏ lớp học giữa chừng, thì sẽ có người đi tìm anh ta để tìm hiểu nguyên nhân. Những hành động đó đã khiến cho nhiều học viên bỏ đi.

Phóng viên: Ông đánh giá mình như thế nào trong quãng thời gian 28 năm này?

Olivier Raurich: Trên thực tế, giáo dục tinh thần của tôi là nhờ ông ấy mà có. Tuy rằng ông ấy không viết cuốn “Tử thư Tây Tạng” (chú thích: Lý Ngao bình luận cuốn “Tử thư Tây Tạng” rằng: “Đây là cuốn sách do các yêu tăng Tây Tạng viết!”. Xem link: http://www.lamatruth.com/articles/?type=detail&id=596), thế nhưng ông ấy là động lực đằng sau cuốn sách đó.

Tôi sẽ không hoàn toàn phủ nhận trải nghiệm của những năm tháng này, bởi vì tôi đã từng nghiên cứu, luyện tập và chia sẻ đả tọa, còn có hướng dẫn tinh thần từ bi, và cả nguyên lý cơ bản của Phật giáo – phép tắc vô thường và nhân duyên. Vì thế, tôi đã thỉnh cầu Sogyal Rinpoche viết lời tựa cho cuốn sách đầu tiên của tôi. Thế nhưng, vào những năm cuối, ông ấy ngày càng kiên quyết nhấn mạnh sự dâng hiến tuyệt đối về tôn giáo và đối với sư phụ. Thế nhưng, Phật giáo chân thực là trí tuệ có được từ trong thể nghiệm của tự phản tỉnh. Đây là những gì mà Đạt Lai Lạt Ma thường nói với tư cách là đại diện mẫu mực của Phật giáo.

Đến nay, tôi đã loại bỏ được những bộ phận lạm dụng hoặc truyền thống mà không còn phù hợp với thời đại nữa. Tôi truyền bá một loại trí tuệ thế tục cho người phương Tây, sử dụng phương thức giao tiếp tương tác và giao lưu bình đẳng, không có Thượng sư nào, cũng không có sự cuốn hút của ma pháp, mà là mỗi người đều tận tâm tận lực thực hành pháp mà ông ấy tuyên dương. Nội tâm của tôi cuối cùng đã được yên ổn rồi.

Nguồn link: https://buddhism-controversy-blog.com/2016/03/09/sogyal-rinpoche-rigpa-an-interview-with-the-former-director-of-rigpa-france-olivier-raurich/

 

Từ khóa: Sogyal Rinpoche, Nhân Ba Thiết, Tử thư Tây Tạng, Thượng sư, Đạt Lai Lạt Ma

 

Trước đó: BIỆN PHÁP QUẢN LÝ SỰ CHUYỂN THẾ CỦA PHẬT SỐNG TRONG PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀN

Tiếp theo: 10 NĂM THI HÀNH “BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CHUYỂN THẾ CỦA PHẬT SỐNG”

trang chủ

lượt xem trang: 1509


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg