Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |
Tiết 5: Tổ sư Mật tông hay coi A Lại Da thức và Như Lai Tạng là hai pháp khác nhau -2 |
Thế nhưng, câu “A Lại Da là Thủ thức” nói trong kinh Duy Thức, không phải là tính nó ô nhiễm nên thủ lấy thân Tam giới, mà là nói vì sự chấp trước của Ý (căn) ô nhiễm, cho nên khiến cho A Lại Da thức thủ lấy sắc pháp trong Tam giới để hình thành thân của anh ta, chứ không phải là A Lại Da thức tự ý thủ lấy thân Tam giới. Khi đã thành thân Tam giới rồi thì mới lại chấp trì thân đó. Vì nó (A Lại Da) có thể thủ lấy chủng tử tứ đại trong Tam giới, có thể trì giữ thân Tam giới, cho nên gọi là Thủ thức, chứ không phải là nói A Lại Da thức tự bản thân nó sinh khởi ý ô nhiễm trong Lục trần Tam giới mà thủ lấy vạn pháp Lục trần. Lại nữa, A Lại Da thức đã là nguyên nhân của thân căn, thì mệnh của người đó đáng ra cũng phải do Thức này trì giữ, thì sao các thày Mật tông lại nói mệnh khí là do Minh điểm trong Trung mạch trì giữ? Tự mâu thuẫn với lời nói của chính mình, trước sau trái ngược, không đúng chính lý chút nào. Trong kinh Chủng trí Duy Thức, Phật nói A Lại Da thức “là vô phúc vô ký, A La Hán vị xả”, là nói xả bỏ cái tên A Lại Da (danh từ), chứ không phải là xả bỏ cái thể Thức thứ tám này. Thế nhưng, các thày Mật tông hiểu nửa vời, ngộ nhận ý chỉ trong kinh nói xả A Lại Da, nên cho rằng cần phải tiêu diệt cái Thức thứ tám này, cho rằng phải đoạn trừ nó: “Ban đầu luyện tập từ trong nghi quỹ mà có đối trị viên mãn thứ nhất. Sau khi quán không, tức từ trong Không tính sinh ra chủng tử Chân Như, chủng tử này vừa là chủng tử thụ sinh, đã lìa khỏi chủng tử nghiệp lực của chúng sinh thông thường. Từ chủng tử này chuyển thành thân Bản tôn, lúc này thay thế cho thân xác thịt của phàm phu, mà không có sinh (ra) Hữu trong nghiệp lực của anh ta. Thức thứ tám đi sau đến trước làm ông chủ trong luân hồi thì đã tiệt đoạn rồi”. (34-70) Các thượng sư Mật tông xưa nay đều giải thích Phật pháp theo ý mình như thế, tình hình cực kỳ nghiêm trọng, không phải chỉ là một người mà tất cả đều như vậy cả, khiến cho những người tu học pháp môn Mật tông học được những tri kiến Phật pháp vô cùng hỗn loạn, dẫn đến kết quả tu lâu không chứng, cũng dẫn đến hậu quả tu mà chứng sai, phạm đại vọng ngữ nghiệp. Lại như “Thậm thâm nội nghĩa” nói: “Do Phật thực hành vô thượng Kim Cương thừa, đã thành cứu cánh, chiến thắng tất cả vi phẩm. Trong tất cả các pháp, người giải thoát thân nghiệp của mình, có thân hư không, vô vi tùy ý vận hành, thành biện tự thể, Thức thứ tám diệt trừ, thanh tịnh vô sinh vô diệt, Niết Bàn đại cứu cánh. Luận sư Nguyệt Xứng nói: “Cái củi đã biết có thể đốt cháy, bên trong đó là Pháp thân Phật tịch tĩnh, khi đó vô sinh cũng vô diệt, tâm diệt hiện chứng Pháp thân Phật”. Cái gốc được tịnh là tâm Thức thứ tám, đã diệt rồi, cái tên đối trị của nó gọi là chứng trí kiến Như Lai. Vì pháp giới cực thanh tịnh, là thân hư không”. (34-510) Đem diệt trừ cái Thức thứ tám rồi, mà có thân hưu không tồn tại, đó quả là hư vọng tưởng của các thày Mật tông. Bởi tất cả các pháp đều do Thức thứ tám sinh ra, bảy thức đầu cũng từ Thức thứ tám này sinh ra, nay (Mật tông) lại nói “đem diệt trừ Thức thứ tám”, thì sao còn có thể sinh ra “thân hư không”? Có khác gì người ta nói: “Đem nước đun khô kiệt, thành tựu tính ướt cực tịnh”, thật đúng là vọng tưởng của kẻ ngu si mới nghĩ ra được. Lại nữa, Đại Niết Bàn và Niết Bàn vô dư đều phải dựa vào Thức thứ tám mà lập tên: Đoạn trừ sự hiện hành của Phiền não chướng, sau khi xả thọ (chết), không còn thụ sinh (đầu thai) nữa, duy chỉ còn lại Thức thứ tám lìa kiến văn giác tri tồn tại một mình, nên gọi là Niết Bàn vô dư; Đoạn tận tập khí chủng tử tùy miên của Phiền não chướng, và đoạn tận tất cả Vô minh tùy miên của Sở tri chướng, Thức thứ tám có đủ hai pháp này thì mới gọi là Đại Niết Bàn. Đó là nội dung Phật nói trong chư kinh Duy Thức thuộc Tam chuyển pháp luân, cho nên “cảnh giới” Niết Bàn vô dư và Đại Niết Bàn đều phải dựa vào sự thanh tịnh (khác nhau) của Thức thứ tám mà đặt tên, thì sao có thể đứng ngoài Thức thứ tám, đem Thức thứ tám diệt trừ xong mà nói về giải thoát? Như kẻ ngu lìa bỏ cái thể của nước mà bảo có tính ướt, cho nên các thày Mật tông cũng ngu si như vậy, lìa bỏ Thức thứ tám mà nói có Niết Bàn để chứng, diệt trừ Thức thứ tám mà nói có thể chứng được Niết Bàn, rõ ràng là những kẻ không hiểu gì về Phật pháp cả. Mà Thức thứ tám, tính như Kim Cương, cho dù chư Phật thập phương hợp tất cả thần lực của họ lại thành một lực cũng không thể nào diệt trừ được cái thể Thức thứ tám của bất kỳ chúng sinh thấp kém nào, huống hồ các thày Mật tông không có tý thần lực nào mà nói có thể diệt trừ được thể Thức thứ tám của chính mình. Tuyệt không có lý ấy. Các thày Mật tông đã vọng thuyết diệt trừ Thức thứ tám như thế rồi, nhưng người đời sau còn đem hình ảnh Bản tôn do quán tưởng mà thành ra nói rằng như thế đã trừ được thân phàm phu, chuyển thành thân Phật: “…Cái xí, là chỉ cờ tiêu cầm trong tay, ví dụ như chuông, chùy…Hợp nhất, là nói ôm Phật Mẫu (Minh Phi). Cái này thuộc về Hách Lỗ Cát, là ngũ tướng thành thân trong bộ Vô thượng Yoga. Là viên châu thứ bảy, đối trị thân sinh hữu của phàm phu. Dựa vào bộ Vô thượng Yoga sinh khởi thứ đệ, thực sự sinh khởi tướng đầu, mắt, râu, mày của Bản tôn, không chia thô tế, đều rất rõ ràng kiên cố. Phật mạn không quên, thẳng tiến cho đến chứng được ảnh Phật viên mãn, là viên châu thứ tám, đối trị thân sinh hữu của phàm phu”. (34-72) Nếu như nói Thức thứ tám là Minh điểm bên trong Trung mạch do quán tưởng mà thành, rồi diệt trừ Minh điểm (Thức thứ tám) này, nói vậy còn thông được. Nhưng nếu nói cái bị diệt trừ là A Lại Da thức mà Phật thuyết, thì không thông được. Bởi A Lại Da thức mà Phật giảng ở đây chính là Thức căn bản của chúng sinh hữu tình, cũng là Thức căn bản của A La Hán (cũng gọi là Dị Thục thức), cũng là Thức căn bản của chư Phật thập phương – Chân Như (còn gọi là Vô Cấu thức). Thức thứ tám này mãi mãi không thể diệt trừ được, cũng không có ai, bất cứ thánh nhân nào có thể diệt trừ được nó, thì sao các thày Mật tông mỗi lần khai thị đều nói mọi người phải diệt trừ nó? Nếu quả thực có người nào có thể diệt trừ nó, thì Thức thứ tám này không phải là Kim Cương tâm nữa, vậy tại sao “Kinh Kim Cương” lại nói nó là Kim Cương tâm? Cho nên, câu “diệt A Lại Da thức” của Mật tông chỉ là tà thuyết, trái ngược với kim ngôn của Phật, không phù hợp với thánh giáo lượng, không phải là Phật pháp. Pháp nghĩa mà các thày Mật tông nói thường hay tự mâu thuẫn với chính mình. Ví dụ phần trước đã nói cần phải diệt trừ Thức thứ tám, nhưng bọn họ cho rằng còn có Thức thứ chín đồng thời tồn tại với Thức thứ tám khi thành Phật, đốp nhau chan chát: “…và khai mở các mạch trí tuệ, để thăng hoa Minh điểm trắng đỏ. Minh điểm là trí tuệ; Điểm tức là cái tinh hoa của nó (trí tuệ). Nó nằm ở trên tham phiền não thô nặng (trên cái tham không thể chịu nổi cơn cực khoái tình dục dâm lạc mà sắp sửa xuất tinh đến nơi, đó gọi là tham phiền não thô nặng), lấy trí thẩm thấu, thẳng đến thức thứ chín chuyển thành Ngũ trí: Năm thức đầu chuyển thành Thành sở tác trí, thức thứ sáu chuyển thành Diệu quan sát trí, thức thứ bảy là Bình đẳng tính trí, thức thứ tám là Đại viên kính trí, thức thứ chín chuyển thành Pháp giới thể tính trí.” (34-76) Thế nhưng, thực tế Phật chỉ nói đến tám thức, không có Thức thứ chín. Nay tôi chỉ lược thuật duyên khởi môn Chân Như của thức thứ tám, chín, mười như sau để giúp các Phật tử có được chính tri, chính kiến: Tất cả chúng sinh hữu tình đều có Thức thứ tám, vì có chủng tử ô nhiễm của phân đoạn sinh tử và các nghiệp chủng đã tạo, cùng với chủng tử bảy thức đầu có Tập tàng tính (A Lại Da tính) tàng chứa phân đoạn sinh tử nên gọi Thức thứ tám này là A Lại Da thức. Sau khi nghe pháp đạo Giải Thoát mà Kiến đạo, rồi tiếp tục tu đạo đoạn trừ Tư hoặc, không còn có A Lại Da tính nữa (không còn Tập tàng tính tàng chứa chủng phân đoạn sinh tử nữa), trở thành A La Hán, lúc này Thức thứ tám của anh ta đổi tên là Thức thứ chín – Dị thục thức, còn gọi là Am Ma La thức. Kỳ thực, nó vẫn là Thức thứ tám, chỉ đổi cái tên mà thôi, chứ không đổi bản thể. Sau đó, tiếp tục nghe Phật giảng về đạo Đại Bồ Đề, lại hồi tâm sang Đại thừa, tiến tu đạo Phật Bồ Đề. Trải qua quả vỉ Thất trụ vị Minh tâm, chứng được Tổng tướng trí Bát Nhã, tiến tu Biệt tướng trí Bát Nhã giảng trong “Kinh Bát Nhã”; Lại không còn khởi tâm tự mãn nữa, tiến tu Nhất thiết chủng trí phải học ở chư địa mà sinh khởi Vô sinh pháp nhẫn, tiến vào Sơ địa, đến giai đoạn có thể đoạn tận Tư hoặc nhưng không đoạn nó, lưu một phần Tư hoặc để nhuận sinh đời sau, tiến tu lên các địa. Từ đó tiến lên, bắt đầu đoạn trừ tập khí chủng tử của phân đoạn sinh tử, tiến tu Nhất thiết chủng trí của Vô sinh pháp nhẫn, tăng lên từng địa. Đến khi Sơ địa mãn tâm là có thể thủ chứng Huệ giải thoát quả nhưng không thủ chứng, đến khi Tam địa mãn tâm có thể chứng Câu giải thoát quả của Diệt tận định nhưng cũng không chứng. Bồ Tát Sơ địa, Tam địa khi xả thọ đều có thể thủ chứng Niết Bàn vô dư nhưng không thủ chứng, từng bước tiến tu Chủng trí Duy Thức cho đến Lục địa, nhất định buộc phải thủ chứng Diệt tận định, nhưng vẫn không nhập Niết Bàn vô dư, tiến tu tiếp “Niệm niệm nhập Diệt tận định” của Thất địa, “Vu sắc biến hiện tự tại” của Bát địa, vô công dụng hành với đạo Giải Thoát, rồi tu “Dẫn phát Như Lai vô lượng Diệu trí tam muội”…do Phật truyền thụ…Cứ thế tu dần cho đến quả vị Đẳng giác, rồi lại xả thân thọ sinh khắp nơi trong một trăm kiếp (tu thêm phúc đức), bố thí đầu mắt não tủy thân chân tay…Sau khi bố thí vô lượng nội tài trong một trăm kiếp để tu tướng hảo, thì mới có đủ phúc đức ở quả vị Bồ Tát thân cuối cùng. Khi phúc đức đã đầy đủ, (Bồ Tát thân cuối cùng) bèn giáng sinh vào nhân gian, xuất gia tu hành, đoạn tận tập khí chủng tử Phiền não chướng phần cuối cùng còn lưu lại, đoạn tận Sở tri chướng tùy miên cực kỳ vi tế phần cuối cùng, mới thành cứu cánh Phật đạo. Lúc này, Thức thứ tám đổi tên thành Thức thứ mười, gọi là Vô cấu thức, còn gọi là Chân Như, hay là Chân Như quả địa. Tiến tu và thành Phật đạo như thế, gọi là đạo Phật Bồ Đề, cũng gọi là đạo Đại Bồ Đề, vì khác rất xa so với đạo Giải Thoát tu ở Nhị thừa Bồ Đề. Cứ tiến tu như vậy, dần dần thay đổi nội hàm của Thức thứ tám, khiến cho A Lại Da tính và Dị thục tính của Thức thứ tám đoạn trừ tịnh tận, trở thành Vô cấu thức Chân Như, gọi là duyên khởi Chân Như. Phật nói như vậy trong các kinh là nói Chân Như ở Phật địa không phải do tu mà có, cũng nói Chân Như ở Phật địa không phải không tu mà có, vì thể vốn thường hằng tự tại, vì trong Tự tính thanh tịnh của Thức thứ tám lại có chứa các chủng tử ô nhiễm của Thất chuyển thức. Vì thế, Chân Như ở Phật địa phi tu phi bất tu, phi vốn có, phi phi vốn có, gọi là duyên khởi Chân Như. Cái “duyên khởi môn Chân Như” nói trong “Đại thừa khởi tín luận” chính là ý này. Người chưa Kiến đạo thì không biết lý này, thế nên mới phỉ báng cuốn luận đó là giả. Từ chính lý đã thuật ở trên, có thể thấy chư Phật thập phương không hề có chín thức như các thày Mật tông nói, mà vẫn chỉ có tám thức. Cái tên thức thứ chín, thức thứ mười chỉ là bày đặt phương tiện, để chúng sinh biết rằng Thức thứ tám của phàm phu thì khác với Thức thứ tám của A La Hán, khiến cho các Bồ Tát, A La Hán biết rằng Thức thứ tám của họ khác với Thức thứ tám của chư Phật. Cho nên, chư Phật không có thức thứ chín đồng thời cùng tồn tại (với Thức thứ tám) mà thực tế vẫn chỉ có tám thức. Nhưng các thày Mật tông không hiểu ý Phật, vọng tự ý giải nghĩa, dùng để dẫn dắt sai lầm chúng sinh cùng nhập vào tà thuyết, thật không nên chút nào. Như vậy, các thày Mật tông không biết cũng không chứng được Thức thứ tám A Lại Da, phủ định Thức thứ tám A Lại Da, sau đó còn sáng tạo riêng thêm thức thứ chín, nói đó là thức mà chỉ có “Phật” của Mật tông chứng được, dùng nó để nâng cao vị thế “Phật” của Mật tông, tự xưng Phật mà họ thờ phụng là Phật Đại Tỳ Lô Giá Na, tự rêu rao rằng còn thắng diệu hơn cả Phật Thích Ca Như Lai mà bên Hiển giáo thờ phụng, vì họ cái họ chứng được là thức thứ chín. Thế nhưng, quan sát nội hàm thức thứ chín mà “Phật Đại Tỳ Lô Giá Na” của họ chứng được thì vẫn chỉ là Thức thứ tám của phàm phu vị, vẫn còn chưa từng Kiến đạo, huống hồ là thành Phật? Phật mà họ thờ phụng đó, kỳ thực chỉ là quỷ thần mạo danh thị hiện, chứ không phải là Tỳ Lô Giá Na Phật thật sự. Tỳ Lô Giá Na là Báo thân Phật, những gì Ngài tuyên thuyết đều là Nhất thiết chủng trí thậm thâm cực thậm thâm (đã rất thâm sâu còn thâm sâu hơn nữa) – tức là Nhất thiết chủng trí Duy Thức mà chỉ có bậc Bồ Tát địa thượng (Bồ Tát ở các quả vị Thập địa) mới được tu học, chỉ có bậc Bồ Tát chư địa nghe mới hiểu được. Các tông phái Mật tông đã bài xích rằng pháp môn Chủng trí Duy Thức của Tam chuyển pháp luân là pháp bất liễu nghĩa, chỗ nào cũng tìm cách hạ thấp pháp môn này, đồng thời suy tôn Trung Quán Bát Nhã của Tổng tướng trí, Biệt tướng trí trong Bát Nhã là pháp tối cứu cánh, thế nhưng “Phật Đại Tỳ Lô Giá Na” mà họ tôn sùng lại không thể nói về Chủng trí. Hơn nữa, trong “Kinh Đại Nhật” chỗ nào cũng nói về Duyên khởi tính không mà bảo rằng đó là Không tính Bát Nhã, điều này khác xa so với Không tính – Phi Tâm Tâm, Vô Tâm Tướng Tâm, Bất Niệm Tâm nói trong “Kinh Bát Nhã”, chứng tỏ rõ ràng rằng “Phật Đại Tỳ Lô Giá Na” mà Mật tông thờ phụng tuyệt đối không phải là Phật Đại Tỳ Lô Giá Na thật sự, mà là do các thượng sư Mật tông sáng tạo ra “Kinh Đại Nhật” để giả danh “Phật Đại Tỳ Lô Giá Na” mà hành pháp ấy. Hoặc là do quỷ thần giả mạo thị hiện, mượn danh nghĩa Phật giáo để cầu mong được cúng dường những vật bất tịnh như Ngũ nhục, Ngũ cam lộ… mà thôi. Các thày Mật tông không chỉ không biết, không chứng được Thức thứ tám, mà còn phủ định nó, thường bảo đó là pháp “chia nhỏ từ Ý thức thứ sáu ra”. Họ còn hiểu sai chân chỉ của Như Lai Tạng, xây dựng riêng ra một hệ thống Như Lai Tạng khác, đứng ngoài Như Lai Tạng (thật sự) để nói về một pháp Như Lai Tạng khác. Thuyết tà trái hoang đường như vậy sẽ khiến cho tất cả các thượng sư và người học Mật tông đời nay, đời sau vĩnh viễn không thể chứng được Như Lai Tạng, bởi họ chắc chắn sẽ đứng ngoài Như Lai Tạng thực sự để cầu một cái Như Lai Tạng khác, bởi Thức thứ tám A Lại Da chính là Như Lai Tạng. Chân lý về Thức thứ tám A Lại Da thậm thâm cực thậm thâm, đến các đại A La Hán không hồi tâm và các đại A La Hán tuy đã hồi tâm quay về Đại thừa nhưng chưa Minh Tâm còn không biết, phải đợi sau khi Minh Tâm mới biết, huống hồ là các thày Mật tông xưa nay chỉ là những người tự dùng, tự ý kiến giải, muốn đứng ngoài Thức thứ tám Như Lai Tạng để cầu một cái Như Lai Tạng khác, thì sao có thể chứng được nó? Cho nên, vị “Phật Đại Tỳ Lô Giá Na” trong “Kinh Đại Nhật” do những người chưa chứng ngộ Như Lai Tạng Không tính sáng tác ra chỉ là Phật do vọng tưởng của phàm phu biên tạo ra, tuyệt đối không phải là Phật thật thị hiện để thuyết giảng chính pháp, bởi lẽ “Phật Đại Tỳ Lô Giá Na” trong “Kinh Đại Nhật” kia vẫn còn chưa chứng được Thức thứ tám Như Lai Tạng mà. Các thày Mật tông đã không biết, không hiểu gì về Đệ nhất nghĩa đế, lại còn tự ý sáng tạo ra các loại tà thuyết, đôn cao lên là pháp thắng diệu hơn cả Kiến địa của Hiển giáo; Họ lại còn đem các loại pháp môn tu hành của ngoại đạo vào để thay thế pháp môn tu hành chính xác vốn có trong Phật giáo, khiến cho Phật giáo dịch chuyển dần dần từ bản chất sang pháp môn tu hành của phàm phu ngoại đạo, nhập sâu hết vào tà đạo, vĩnh viễn đoạn tuyệt với đạo Giải Thoát và đạo Phật Bồ Đề thực sự của Phật giáo. Có thể nói sự tệ hại xấu xa này không hề nhỏ chút nào, nghiệp của họ không hề nhẹ chút nào. Những người học có trí tuệ nên hiểu rõ tính nghiêm trọng của vấn đề, nên biết rằng quả báo nặng nề trường kiếp trong tương lai không hề dễ tiêu hóa chút nào. Nếu có thể biết được đến đây rồi thì hãy kiểm điểm và lựa chọn chính xác.
Lượt xem trang: 31467 |
Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |