The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 8: Các thày Mật tông đều coi Tâm giác tri trụ ở tất thảy pháp không là Pháp thân

 Tiết 8: Các thày Mật tông đều coi Tâm giác tri trụ ở tất thảy pháp không là Pháp thân

Các thày Mật tông tuyệt đại đa số đều coi tất thảy pháp không (nhất thiết pháp không) là Pháp thân, chứ không coi Thức thứ tám là Pháp thân. Trong “Thậm thâm nội nghĩa” cũng viết thế này: “Minh điểm ly hý (lìa hý luận): “…Tự tính minh thì là Báo thân, bất diệt đại bi tùy hóa hiện, ba tướng này như hiện tại, tất thảy đều hiển hiện như không”. Cái Minh điểm căn bản, là nói Câu sinh trí của Tự tâm, bản thể không, tự tính minh, tướng bất diệt, ba thứ này theo thứ tự là bản thể ba thân Pháp (thân), Báo (thân), Hóa (thân), phần trước đã lược thuật rồi. Cái mà hiển hiện ở hiện tại, Pháo thân là tất thảy pháp khong, chư pháp tự tính hiển hiện, không vượt qua chỗ này. Về Báo thân, cái không đối cảnh, nhưng minh tướng của nó có 10 loại, uyển nhiên hiển hiện. Về Hóa thân, công năng hiện cảnh của sáu thức đầu, mỗi cái đều đầy đủ”. (34-412)

Theo ý của đoạn văn này, thì cái tất thảy pháp không mà Mật tông nói chính là khi Giác tri tâm và Minh điểm tồn tại một mình, mà không quán tưởng tất cả các pháp, không để cho chư pháp xuất hiện, gọi là “tất thảy pháp không”. Việc Tâm giác tri và Minh điểm độc tồn mà không xuất hiện các pháp quán tưởng như thế gọi là “Pháp thân” của tất thảy pháp không. Nếu mà dựa vào Minh điểm mà quán tưởng các pháp khác biến sinh và xuất hiện thì là công năng hiện cảnh của sáu thức đầu, gọi là “Hóa thân”. Còn nếu như Tâm giác tri ở trong cảnh giới Minh điểm này, nó có Minh tính (tính liễu tri – hiểu biết) tồn tại mà không sinh ra tính nhiễm trước, thì cái Minh tính của Tâm giác tri đó gọi là “Báo thân”.

Vì tà kiến này đó, nên “Thậm thâm nội nghĩa” lại nói rằng: “Ba pháp (chỉ Pháp thân, Báo thân, Hóa thân nói ở trên) không phân chia, hiển hiện trên cảnh, cái có thể hiển hiện trí tuệ của cảnh, thức tương liên với cảnh tức là Tự bản thể, đó chính là Minh điểm lìa hý luận căn bản. Cái hiện lượng của Minh điểm lìa phân biệt này, cái tương ứng với nó thế nào? Pháp giới tán của Long Thụ viết: Ý là trước chư pháp chủ yếu, lìa xa tướng phân biệt quan sát, là chư pháp không có tự tính, cần tu pháp giới như vậy. Mắt thấy tai nghe mà mũi ngửi, lưỡi nếm cho đến thân xúc, chư pháp liễu tri bản tính viên. Mắt tai cho đến mũi lưỡi, và thân ý, sáu thứ nhập tịnh, đó là Thắng nghĩa tướng. Bản thể của tâm thấy hai tướng, tức là thế gian và xuất thế gian. Thế gian là chấp Ngã lưu chuyển, còn xuất thế liễu tri là Thắng nghĩa, tham dục thanh tịnh là Niết Bàn. Sân tâm ngu si thanh tịnh rồi, thanh tịnh như thế là Phật tính, là cứu chủ (cứu tinh) của các chúng sinh”. (34-412~413)

Thực ra bài kệ này không phải là do Bồ Tát Long Thụ nói, vì không khớp với pháp nghĩa Tam thừa, trái với ý chỉ trong rất nhiều luận thuật mà Bồ Tát Long Thụ viết ra. Đó là do tổ sư Mật tông tự ý giải thích Pháp thân, nói khi Tâm giác tri hiện hành trên cảnh giới hiện lượng của Minh điểm, không khởi phân biệt mà tham trước sân si thì Tâm giác tri lúc đó chính là “Pháp thân của tất thảy pháp không”. Với việc coi Tâm giác tri là Pháp thân như vậy, nói Tâm giác tri Pháp thân có Minh tính (là tính phân biệt có thể hiểu biết Lục trần khi ở trạng thái nhất niệm bất sinh), mà cái Minh tính này tức là Báo thân – có thể đối cảnh hiển hiện Minh tính, mà tự biết cái cảnh đang đối diện đó đều là không, thì cái Minh tính này là “Báo thân”. Rồi họ lại bày đặt ra các Tâm giác tri sáu thức đầu, có thể hiển hiện công năng trên các loại cảnh giới là “Hóa thân”.

Thế nhưng, Tâm giác tri chỉ là pháp duyên khởi được sinh ra, tức là sáu thức đầu, không có công năng hiển hiện cảnh giới, cũng không phải là Hóa thân. Cái cảnh mà Lục thức hiểu biết được là Nội tướng phần, đều là do Thức thứ tám hiện tiền ra. Nếu nói như thế là Hóa thân, thì tất cả mọi phàm phu chẳng cần phải tu hành, cũng đều đã chứng được Hóa thân từ lâu rồi, thì tất cả mọi người học của Hiển giáo cũng đã chứng được Hóa thân từ lâu rồi, chứ không phải chỉ có thày trò Mật tông họ mới chứng được Hóa thân đâu. Như vậy, hành giả bảo là chứng được Hóa thân chỉ là dương oai diệu võ với người Hiển giáo, chứ thực không có ý nghĩa gì cả, vì bởi tất cả những người phàm phu chưa từng tu hành cũng đều đã có “Hóa thân” này rồi.

Như thế mà còn nói “Minh điểm lìa hý luận căn bản”, bản thân lời nói đó đã là hý luận rồi, hoàn toàn không liên quan gì đến tu chứng Đệ nhất nghĩa đế của Phật pháp Đại thừa, cũng hoàn toàn không liên quan gì đến tu chứng của đạo Giải Thoát Nhị thừa. Từ hý luận này mà phát triển ra các loại pháp môn tu hành, chẳng phải đều là hý luận cả hay sao, có chỗ nào đáng quý đâu? Thế mà tự ra vẻ bí mật, không cho người khác biết. Không có cái lý ấy đâu!

Mật tông lại vì hiểu sai về chân nghĩa của duyên khởi Chân Như, nên đã phê phán duyên khởi Lại Da, từ đó phủ định A Lại Da thức, vọng thuyết nói Căn bản thức này là cái Tâm thuần vọng, là không liễu nghĩa, hoàn toàn trái ngược với lời Phật. Họ nói rằng: “Đại thủ ấn là phần tối thượng của Mật tông, nên không trọng duyên khởi Lại Da. Các luận điệu Tam giới duy Tâm, vạn pháp Duy Thức là thuộc về duyên khởi Lại Da của Duy Thức tông. Các học giả Tây Tạng đa số phê bình nó là chưa liễu nghĩa. Tam giới duy duyên, vạn duyên duy Không, bất luận là ngũ đại của Sắc, tứ uẩn của Tâm, đều thuộc về duyên khởi tính Không, mới thật sự là liễu nghĩa thuộc Đại thủ ấn của Mật tông. Cho nên trong đạo Giải Thoát, như tu thỏa-cát (đốn siêu), ngũ đại ngũ quang trong Đại viên mãn; ngũ khí ngũ quang, tứ hỷ tứ không trong Tham đạo, đều hiển hiện nhờ thực đức duyên khởi của lục đại du già (yoga), không lệch về Duy tâm”. (34-702)

Các thày Mật tông hoàn toàn không hiểu gì về chính lý Duy Thức, những lời họ nói hoàn toàn là hiểu sai về pháp nghĩa duyên khởi Lại Da trong Duy Thức học (về vấn đề duyên khởi Lại Da, xin xem chi tiết trong cuốn “Tông thông và Thuyết thông” của tôi, ở đây lược bớt không thuật). Họ đã không chứng được Thức thứ tám nói trong duyên khởi Lại Da, thì sao có đủ năng lực để nghiệm chứng pháp của duyên khởi Lại Da đây? Thế mà lại tự ý dùng vọng tưởng để suy đoán, bình loạn về pháp duyên khởi Lại Da trong Duy Thức học, tựa như ếch ngồi đáy giếng loạn bình vua một nước là thảo dân thấp kém vậy, lẽ nào không khiến bậc thức giả nhếch mép cười hay sao? Mà nay cái Minh Không Đại thủ ấn mà người trong Mật tông tự hào nhất lại là nhận xằng Tâm ý thức (Tâm giác tri nhất niệm bất sinh, không duyên bám vạn pháp) là Chân Như ở Phật địa; Lạc Không Đại thủ ấn của Vô thượng yoga thì nhận lầm Tâm giác tri nhất tâm thụ lạc trong Song thân pháp là Tâm Chân Như ở Phật địa; đồng thời vọng ngôn nói Tâm giác tri trong tư thế tọa này hoặc trong dâm lạc, (ở trạng thái) nhất niệm bất sinh tức là Căn bản tâm có thể sinh ra vạn pháp.

Cái đạo Giải Thoát mà họ nói đó, và những thứ như “tu thỏa-cát, ngũ đại ngũ quang trong Đại viên mãn; ngũ khí ngũ quang, tứ hỷ tứ không trong Tham đạo, đều hiển hiện nhờ thực đức duyên khởi của lục đại du già (yoga)” đều là Tâm ý thức, nhưng lại vọng nhận Tâm ý thức có thể sinh ra vạn pháp, nói đó là pháp liễu nghĩa cứu cánh, nói đó là pháp thắng diệu hơn cả những gì Hiển giáo chứng được. Nếu như tham cứu thực chất của nó, thì theo đạo Giải Thoát mà Tiểu thừa chứng được, còn chưa vào được trong Kiến đạo vị - không vào được trong Sơ quả vị của Thanh Văn, vì vẫn chưa đoạn được ý thức Ngã kiến mà thường kiến ngoại đạo đọa vào. Trí tuệ thô thiển của đạo Giải Thoát Thanh Văn còn chưa đủ sức chứng biết, huống hồ có thể tu chứng trên đạo Phật Bồ Đề mà Đại thừa chứng được? Bởi lẽ đạo Phật Bồ Đề mà (hành giả) Đại thừa tu chứng là đi vào bằng việc thực chứng Thức thứ tám A Lại Da thức. Nay các thày Mật tông còn chưa thể nhập vào Kiến đạo vị của Phật pháp Tam thừa, mà lại ba hoa về sự tu chứng “du già” cứu cánh vô thượng, có khác gì hành động ngu si của kẻ ăn mày tự nói mình “đã thành trưởng giả đại phú”.

Vì ngộ nhận về Phật pháp, nên Đại thủ ấn “Tâm bất chỉnh trị” của Mật Lặc Nhật Ba mà “Thậm thâm nội nghĩa” tôn sùng đã rơi vào trong cảnh giới của Tâm ý thức. Họ lại coi Minh thể là Chân Như diệu tâm, không khác gì cái mà Tông Khách Ba chấp trước: “ ‘Hằng Hà Đại thủ ấn’ Cống sư (thày Cống) phân tích, dẫn dụng cái (tâm) bất chỉnh trị do Mật Lặc Nhật Ba chí tôn nói, phải chia thành ba việc. Một là phiền não và vọng niệm, không chỉnh trị (uốn nắn, quản lý) thì sẽ đọa lạc. Hai là lạc minh vô niệm, không chỉnh trị thì sẽ lưu chuyển trong Tam giới (luân hồi). Ba là bản tâm, thì không được phép chỉnh trị vân vân. Trong ba việc trên, cái thứ nhất thuộc về Tâm vọng tưởng của tâm lý; cái thứ hai thuộc định tâm hoặc cửu trụ tâm trong giới của tôn giáo; cái thứ ba mới thuộc về bản tâm của Đại thủ ấn. Cho nên trang 20 của cuốn sách này nói “đoạn tâm Ý căn sinh tử chi phần cũng khô héo hết”. Tâm này tức là chỉ Tâm liễu biệt (hiểu biết), Tâm tư tượng (tư duy), chứ không phải là Tâm trong chính hành của Đại thủ ấn. Cái Tâm bản tịnh diệu minh, hoặc Tâm bản tịnh diệu nói trong tụng văn đó mới là Tâm Đại thủ ấn”. (34-703)

Thế nhưng quan sát những lời khai thị và các ca quyết trong “Hằng Hà Đại thủ ấn” mà Mật Lặc Nhật Ba chứng được thì cái Bản tâm thuộc về Đại thủ ấn vẫn chỉ là Tâm ý thức. Độc giả muốn biết chi tiết về nó, xin hãy đọc “Tông môn đạo nhãn mẩu chuyện 208”, “Tông môn chính đạo mẩu chuyện 399” trong cuốn “Công Án Niêm Đề” của tôi, ở đây chỉ nêu ra mà không luận nữa.

Sự xuất hiện của tất cả hữu tình trong Tam giới Lục đạo sinh tử luân hồi, không gì không có nguyên nhân từ duyên khởi Lại Da. Cho đến tất cả các Pháp vương, Thượng sư của Mật tông cũng không lìa duyên khởi Lại Da này. Thế nhưng những người đó lại hoàn toàn không hiểu được đạo lý của duyên khởi Lại Da, đều tự ý giải thích bừa về duyên khởi Lại Da, không tránh khỏi bị các nơi chê cười. Về chính lý của duyên khởi Lại Da, trong hai cuốn sách “Tông thông và Thuyết thông” và “Ngã và vô ngã” của tôi đã có giải thích chi tiết, độc giả đọc là hiểu liền, nên ở đây vì chương tiết có hạn nên không nhắc lại nữa.

Điều muốn nói ở đây là Tâm giác tri trụ ở trong cảnh giới quán tưởng tất thảy pháp không thì nó vẫn là Tâm giác tri, chưa từng thay đổi bản chất Tâm ý thức của nó. Cho dù có thể khiến cho Tâm giác tri trong hai hay sáu thời đều trụ trong trạng thái nhất niệm bất sinh mà không hôn trầm hay ngủ mơ, cứ giữ mãi như thế cả đời mà không ngủ mơ thì vẫn không thể nào thay đổi được bản chất ý thức của nó. Giả như có thể khiến cho Tâm giác tri thường trụ mãi trong cảnh giới nhất niệm bất sinh, liên tục trong ba kiếp hay năm kiếp thì nó vẫn là ý thức, không hề thay đổi bản chất ý thức của nó. Ý thức thì mãi mãi vẫn là Ý thức, cho dù có thành tựu tu hành Phật địa cứu cánh thì Ý thức vẫn là Ý thức, vẫn không thể nào biến thành Chân Như ở Phật địa – Thức Vô Cấu thứ mười. Cho nên, việc Mật tông muốn đem Ý thức thường trụ trong cảnh giới nhất niệm bất sinh để chuyển đổi Ý thức thành Chân Như ở Phật địa, chỉ là vọng tưởng mà thôi. Tu hành như thế, không phải là chính tu trong Phật pháp. Dựa vào đó mà tu ba đại vô lượng kiếp số (ba đại a tăng kỳ kiếp), người khác đã thành Phật hết rồi, nhưng những người trong Mật tông không chịu chuyển sang Hiển giáo để tu thì sẽ vẫn tiếp tục ở địa vị phàm phu mà tự cho rằng mình đã chứng được Phật quả, thành ra dù có tu hành ba đại vô lượng số kiếp vẫn chỉ là dã tràng xe cát mà thôi.

Lại nữa, Mật tông đã thừa nhận trong Phật pháp quả thực có Nhất thiết chủng trí, thì không nên phủ định Thức thứ tám mới phải, vì lìa Thức thứ tám thì chẳng có nhất thiết chủng (tất cả các chủng tử) nào hết. Nếu đã không có nhất thiết chủng thì sao có thể tu chứng được công năng sai biệt của nhất thiết chủng chứ? Sao có thể hiểu biết được nhất thiết chủng này để phát khởi trí tuệ về nhất thiết chủng chứ? Như Tông Khách Ba nói: “Tóm lại, nếu ở trong Thắng nghĩa mà phá chấp vô tính, cái đó không có chút gì thì phá có ích gì? Nếu trong Danh ngôn, Tâm không thể chấp vô tính vô ngã, thì không nên chấp cái đó, thì phải là người hoàn toàn không thông đạt chân thực nghĩa, báng giải thoát và Nhất thiết chủng trí”. (21-611)

Nay Tông Khách Ba đã không cho phép người khác phỉ báng Nhất thiết chủng trí, thì bản thân ông ta cũng không nên phỉ báng Thức thứ tám A Lại Da, không nên phủ định Thức thứ tám A Lại Da mà bản thân mình cũng có mới đúng. Nội hàm của Nhất thiết chủng trí chính là Nhất thiết chủng tử (toàn bộ chủng tử) bao hàm trong Thức thứ tám. Cái gọi là “chủng tử” còn có tên là “giới”, hay còn gọi là “sai biệt công năng”. Cho nên, trí tuệ của Nhất thiết chủng tử chính là tất cả mọi sai biệt công năng từ thức thứ nhất đến thức thứ tám bao hàm trong Thức thứ tám.

Nhất thiết chủng (tử) đã nằm trong Thức thứ tám, thì Hoàng giáo của Mật tông không nên phủ định Thức thứ tám, không nên vu rằng Thức thứ tám chỉ là phương tiện thuyết – nói không có cái Tâm Chân Thực này. Nếu không có cái Tâm Chân Thực này, thì cũng không có Nhất thiết chủng tử. Đã không có Nhất thiết chủng tử thì cũng không có Nhất thiết chủng trí. Nay Tông Khách Ba đã thừa nhận có Nhất thiết chủng trí, đồng thời lại không cho phép người khác phỉ báng Nhất thiết chủng trí thì tất cả mọi ngôn luận phủ định Thức thứ tám của ông ta sẽ trở nên vô nghĩa, tự mình mâu thuẫn với chính mình.

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 31470


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg