Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |
CHƯƠNG 7: Tiết 3: Bát Nhã kiến trong Trung quán phái Ứng Thành của Mật tông (nửa dưới) |
CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT
TẬP HAI
Từ bi cũng là hỗ trợ cho Trí tuệ, nếu như không có trí tuệ Bát Nhã thật sự, mà chỉ có duy nhất Từ bi, người nào muốn đem tà pháp của Mật tông Tây Tạng dùng để lợi ích cho chúng sinh, kỳ thực lại là tàn hại chúng sinh, chứ không phải là đem lại lợi ích gì cho chúng sinh. Vì chắc chắn sẽ hại chúng sinh rơi vào tội địa ngục phá hủy trọng giới và phá hoại chính pháp Phật giáo; chắc chắn sẽ dẫn chúng sinh vào chỗ chịu thuần khổ cực nặng trong vô lượng đời.
- Đạo sư Bình Thực -
Lấy việc đếm tràng hạt làm ví dụ: Mật tông Tây Tạng lấy các loại pháp ngoại đạo như pháp quán tưởng hư cấu, trì chú của ngoại đạo, thiên yoga, thiên thức để làm hạt châu to; lấy phong yoga làm hạt châu nhỏ ngăn cách các hạt to; lấy giáo tướng và vẻ bề ngoài của Tăng bảo trong Phật giáo làm hạt châu đầu Phật; lại lấy danh tướng Trung Quán Bát Nhã và các danh tướng tu chứng quả vị do mình tự định nghĩa làm dây trang sức treo hạt châu đầu Phật; cuối cùng là lấy Song thân pháp của ngoại đạo ở Dục giới – Lạc Không song vận dâm lạc làm dây xâu, đem xâu tất cả các lý luận và hành môn thành Phật của Mật tông lại. Cái sợi tràng hạt được xâu thành như thế, chính là tông nghĩa chân thực của Mật giáo Tây Tạng. - Đạo sư Bình Thực -
CHƯƠNG 7: TRUNG QUÁN BÁT NHÃ – KIÊM THUẬT ĐẠI THỦ ẤN QUANG MINH CỦA MẬT TÔNG
Tiết 3: Bát Nhã kiến trong Trung quán phái Ứng Thành của Mật tông (nửa dưới) Về “Chứng tự chứng phần” của Ý thức, tất cả mọi người thế tục đều có thể nhận biết, xác định rằng nó có tồn tại, tức là khi Ý thức hiện khởi (bao gồm cả Tâm vô niệm linh tri) thì tất cả mọi người khi đang ở cảnh giới Lục trần đều có thể tự nhận biết mình đang ở trong cảnh giới Lục trần. Chính vì tự nhận thức được rằng mình đang ở cảnh giới Lục trần, nên trong lòng sinh ra các cảm giác thuận nghịch, tức là có các cảm giác khổ, vui, lo, mừng, xả, nhận. Như vậy là có thể chứng thực được Tâm ý thức đích xác có “Tự chứng phần”. Cũng vì có cái khả năng “Tự chứng phần” này, Tâm ý thức giác tri lại có thêm khả năng hiểu biết là bản thân mình “liệu có đang ở trong cảnh giới thuận nghịch đó hay không”, có thể quan sát và thực chứng điều này, nghĩa là xác quyết được rằng Tâm ý thức đúng là có “Chứng tự chứng phần”. Hiện nay, khi các thày Trung Quán phái Ứng Thành ở Đài Loan bị tôi nghiêm khắc bình luận về sự vô tri của họ, nếu trong tâm họ đang khởi lên các loại sân hận, oán não, mà lại giống như người thực vật, không thể tự nhận thấy mình lúc này đang ở trong cảnh giới nghịch tâm khởi lên cơn sân hận, oán não, thì như thế mới gọi là không có “Chứng tự chứng phần”. Cho nên, Tâm ý thức giác tri ở trong cảnh giới Lục trần, đều có thể nhận biết mình liệu có đang ở cảnh thuận hay cảnh nghịch tâm hay không, tức là đều có “Chứng tự chứng phần”, chứ không như các thày Trung Quán phái Ứng Thành vọng ngôn nói rằng Tâm ý thức giác tri không có “Chứng tự chứng phần”. Như vậy, tất cả mọi người thế tục đều có thể chứng biết Tâm ý thức linh tri có công năng “Chứng tự chứng phần”, thế mà các thày Trung Quán phái Ứng Thành tự nhận là những người đại tu hành, có chứng lượng nhất, có trí tuệ nhất, họ lại không thể nhận thức được rằng Tâm ý thức bản thân nó có “Chứng tự chứng phần”. Thật đúng là những người chỉ hươu nói ngựa, đảo lộn trắng đen. Tất cả các thày Trung Quán phái Ứng Thành kỳ thực đều sớm chứng biết được Ý thức của mình có “Chứng tự chứng phần”, nhưng vì muốn bảo vệ cái lý sai lệch của Trung Quán phái Ứng Thành của mình, nên cố ý nói lộn ngược mà thôi. Trong chư kinh Tam chuyển pháp luân, Phật vẫn thường nói Tâm Thức thứ tám không có “Chứng tự chứng phần”, còn nói Tâm ý thức có “Chứng tự chứng phần”. Nhưng các thày Trung Quán phái Ứng Thành vì phủ định Thức thứ tám, nên đành đem lời Phật nói “Tâm không tự thấy tâm” giải thích Thức thứ tám ra để giải thích cho Tâm ý thức linh tri thứ sáu, rồi vu rằng Phật nói không có “Chứng tự chứng phần”. Họ biết rõ lời mình nói không khớp với thể nghiệm thực tế trong cuộc sống thường nhật của mình, nhưng cố cưỡng biện rằng Tâm ý thức không có “Chứng tự chứng phần”, dùng chính lời Phật nói về thể tính Thức thứ tám để vu cho Duy Thức tông nói rằng Tâm ý thức có “Chứng tự chứng phần” là sai lầm. Thế nhưng, thực tế là Duy Thức tông vẫn tuân theo lời Phật, nói Thức thứ tám không có “Chứng tự chứng phần”, còn Tâm giác tri thức thứ sáu thì có “Chứng tự chứng phần”. Lời họ nói hoàn toàn giống với lời Phật dạy và trái ngược với thuyết của phái Ứng Thành, chứng tỏ rằng phái Ứng Thành đã cố ý xuyên tạc lời Phật, phỉ báng Duy Thức tông nói không đúng như Phật nói. Tra xét sự thật mới thấy chính các thày Trung Quán phái Ứng Thành đã dẫn sai lời Phật, hiểu nhầm lời Phật, sau đó vu cho Duy Thức tông vốn xiển dương chính pháp rằng họ nói trái với lời Phật, thực tế kẻ nói trái lời Phật chính là phái Ứng Thành. Lại nữa, Phật nói câu “Ý như dao kiếm sắc, không thể tự cắt mình”, là nói về thức thứ bảy Ý căn, còn gọi là Mạt Na thức. Phật dạy thức thứ bảy này là Ý căn, nó là động lực khiến cho chủng tử Ý thức từ trong Thức thứ tám hiện khởi ra, bởi Ý thức phải dựa vào tác ý của Mạt Na thức thì nó mới có thể sinh ra. Sau khi hiện khởi, nó vẫn phải dựa vào tác ý của Ý căn Mạt Na thức để vận hành, cho nên mới nói Mạt Na thức là “cái gốc của Ý thức” (nói gọn là Ý căn). Trí tuệ phân biệt cảnh giới của Ý căn này rất thấp kém, chỉ có thể thực hiện sự hiểu biết rất đơn giản đối với Pháp trần trên Ngũ trần – ví dụ Pháp trần trên Ngũ trần có biến động lớn hay không? Thức thứ bảy này không giống như Tâm ý thức giác tri có thể vận hành lanh lợi ở Tâm sở pháp Ngũ biệt cảnh, nó (thức thứ bảy) không có Tâm sở pháp “dục, thắng giải, niệm, định”, mà công năng ở Huệ tâm sở (Biệt cảnh huệ) cũng rất yếu kém, chỉ có thể hiểu biết một cách cực kỳ đơn giản đối với biến động trên Pháp trần mà thôi. Như vậy, vì (thức thứ bảy) không thể hiểu biết đối với Ngũ trần cảnh, cho nên nó buộc phải kêu gọi Ý thức xuất hiện, rồi sau đó dựa vào Biệt cảnh huệ của Ý thức thì mới có thể thực hiện các loại Tư lượng đối với cảnh giới. Thế thì sao nó có thể phản quan được chính mình? Sao có đủ năng lực để tư duy về các pháp? Sao có đủ năng lực để sửa đổi cho đúng tâm hành và tập khí của chính mình? Vì thế, thức thứ bảy này tuy cực lanh lợi, có thể biến duyên khắp tất cả các pháp, có thể dựa vào Biệt cảnh huệ của Tâm ý thức để làm chủ khắp nơi, làm chủ mọi lúc, có thể tư lượng và quyết định các loại tâm hành; nhưng nếu rời khỏi Biệt cảnh huệ của Ý thức thì nó sẽ chẳng làm được gì cả. Vì thể tính như vậy, Phật mới nói Ý (tức Ý căn Mạt Na thức) như dao kiếm sắc nhọn (dụ cho nó có tính lanh lợi có thể biến duyên khắp tất cả các pháp; còn Ý thức tuy có Biệt cảnh huệ nhưng lại không thể biến duyên khắp tất cả các pháp), nhưng nó không thể cắt đứt được chính nó (dụ cho việc nó không có “Chứng tự chứng phần” Biệt cảnh huệ nên không thể tu sửa cho đúng tâm hành thiện ác của chính mình). Nghĩa là “muốn thay đổi tính ô nhiễm của nó, muốn chuyển biến thành Ý căn thanh tịnh” của Thức này, thì buộc phải dựa vào Biệt cảnh huệ và Tư duy huệ của Ý thức thì mới có thể chuyển biến được, chứ không thể dựa vào công năng của bản thân nó là có thể đoạn trừ được các phiền não tương ứng của bản thân. Vì thế mà Phật mới nói “Ý như dao kiếm sắc, không thể tự cắt mình”. Nay các thày Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông trước là hiểu sai ý Phật, sau là chỉ trích về chính lý Chủng trí của Duy Thức tông, như thế sao có thể nói pháp của họ là Phật pháp chân chính được? lại còn loạn bình chính pháp của Duy Thức tông là phi pháp? lại dám dùng tà kiến của mình để bác bỏ diệu pháp Chủng trí của Duy Thức? Họ điên đảo đến thế là cùng! Mật tông lại dẫn lời của Duy Thức tông “nếu không có Tự chứng phần, Tâm thức ức niệm thế nào?” để nói hữu tình cần phải có “Tự chứng phần” thì mới có thể nhớ lại được những cảnh tượng mà mình đã từng trải qua trong quá khứ. Tịch Thiên lại nói không có “Tự chứng phần” cũng có thể hồi ức, lý do như sau: “Vì tâm cảnh tương liên, nên có thể biết như độc chuột”, ý là nói: Tâm ý thức tuy có lúc đoạn diệt, nhưng vì tâm cảnh trước sau nối liền nhau, nên Tâm giác tri này có công năng biết nhau trước sau liên tục, cho nên có thể hồi ức những chuyện đã qua. Những lời lẽ đó đều trái với những gì Phật nói, cũng không hiểu gì về sự thực trong kinh nghiệm cuộc sống thường nhật. Tất cả mọi người đều biết rằng: Nếu là cảnh giới mà mình chưa từng trải qua, mà được nghe người khác nói về cảnh giới này; hoặc đích thân đã từng trải nghiệm qua cảnh giới này, mà trong lòng đã sinh ra thắng giải (hiểu rõ), thì nó sẽ thành cảnh giới từng trải (người nghe coi cảnh giới mà mình lý giải được sau khi nghe là cảnh giới kinh qua; người đích thân trải nghiệm thì coi cảnh giới từng trải là “tằng kinh cảnh”), thì sau này anh ta mới có thể hồi ức lại việc đó – nhớ lại cảnh giới đã từng được nghe nói hoặc cảnh giới mình đích thân từng trải. Vì lẽ đó, bắt buộc anh ta phải sinh ra thắng giải về cảnh giới đó thì mới có thể hồi ức ở ngày sau. Nếu như không có “Tự chứng phần”, thì anh ta sẽ không sinh khởi thắng giải về cảnh giới từng trải (ví như trong cảnh giới từng nghe hoặc từng trải, anh ta lại hôn trầm mà không thể nhận biết được cảnh giới đó – tức là không có Tự chứng phần về cảnh giới đó), thì sau này anh ta sẽ không thể hồi tưởng được lại cảnh giới trong đó. Lý này cực kỳ rõ ràng, người thế tục chỉ nghe qua là hiểu ý, và có thể đích thân chứng thực điều này. Thế nhưng, các thày Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông lại cả vú lấp miệng em mà biện giải rằng: “Vì tâm cảnh tương liên, nên có thể biết như độc chuột”. Ý của câu này là “Vì tâm cảnh nối liền nhau, cho nên từ việc hồi ức ngoại cảnh đã từng trải qua là có thể thuận tiện nhớ lại cái tâm đã kinh qua. Cũng giống như vào mùa đông, khi bị chuột cắn thì không biết mình đã trúng độc. Đến khi sấm mùa xuân nổ rền, chất độc bắt đầu phát tác, thì mới biết (nhớ lại) lúc bị chuột cắn là đã trúng độc rồi. Vì thế, không có Tự chứng phần cũng có thể nhớ lại”. (3-2-325) Thế nhưng, câu giải đáp này lại là ông nói gà bà nói vịt. Ở đây, Tịch Thiên đã tự thừa nhận rằng từ việc hồi ức ngoại cảnh đã từng trải qua là có thể thuận tiện nhớ lại cái tâm đã kinh qua. Nếu đã như thế, thì chứng tỏ rằng lúc trước đó, anh ta đã thắng giải (hiểu rõ) về cảnh giới mà mình đã trải qua. Đã có cảnh giới từng trải qua, thì phải hiểu rằng lúc trải nghiệm việc đó, đã có “Tự chứng phần” rồi, vì lúc ấy đã có sự hiểu biết đầy đủ về cảnh giới đó. Đã có sự hiểu biết đầy đủ, thì cái hiểu biết của anh ta trong cảnh giới đó chính là “Tự chứng phần”. Như thế mà lại nói Tâm ý thức giác tri không có “Tự chứng phần”, thật đúng là phường cả vú lấp miệng em. Cho nên, việc các thày Trung Quán phái Ứng Thành phá thuyết Tâm ý thức giác tri có “Tự chứng phần” của Duy Thức tông là phá bừa, phá láo, không đúng lý chút nào! Lại nữa, câu “Vì tâm cảnh tương liên, nên có thể biết như độc chuột” của Tịch Thiên cũng có đại sai lầm. Vì Tâm giác tri này đêm đêm đoạn diệt, sáng sớm hôm sau dưới sự tác ý của Ý căn, thì mới tái sinh giác tri từ trong Như Lai Tạng để nhớ lại chuyện cũ. Nếu là pháp có đoạn, có diệt, là pháp mà sáng sớm hôm sau buộc phải dựa vào Thức khác (dựa vào Ý căn và chủng tử Ý thức tàng chứa trong Như Lai Tạng) mới có thể hiện khởi, thì sao có thể nói tự nó có công năng hồi ức được? sao có thể nói Tâm ý thức là tâm cảnh tương liên được? Vì lúc ngủ say không mơ thì nó đã đoạn diệt rồi. Đã bị đoạn diệt thì sẽ thành vô pháp (không còn tồn tại pháp ấy nữa), vô pháp thì chắc chắn không thể tự nó sinh khởi được. Là vô pháp không thể tự sinh khởi, thì sao có thể nói tâm cảnh hôm qua và hôm nay nối liền nhau được? Không có cái lý ấy! Nhất định phải là một cái Tâm xưa nay chưa từng đoạn, chưa từng diệt thì mới có thể nói nó có công đức nối liền hôm qua và hôm nay, kiếp trước và kiếp này. Nay hiện kiến thấy Tâm ý thức giác tri đêm đêm đoạn diệt, sáng hôm sau phải dựa vào cái khác mà khởi (dựa vào bốn loại pháp “Câu hữu y”). Bản thân nó không thể tự sinh khởi, thì sao các thày Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông lại vọng ngôn nói rằng cái pháp Ý thức đêm đêm đoạn diệt đó lại có thể vì chuyện nối liền tâm cảnh của mình mà biết rõ như chuyện trúng độc của con chuột vậy? mà lại có thể tự hồi ức “tằng kinh cảnh” trước kia? Tuyệt không thể có lý ấy! Lại nữa, nếu như Tâm ý thức giác tri không cần có Thức thứ tám trì chủng (nắm giữ chủng tử Ý thức) mà có thể tự nối liền tâm cảnh mà biết rõ chuyện xưa, thì nghĩa là tất cả mọi chủng tử chuyện xưa đều do Ý thức tự tâm nó nắm giữ. Nếu như Ý thức tự tâm nắm giữ, thì Ý thức có thể hồi ức lại tất cả mọi chuyện đã từng trải qua. Thế nhưng, nay quan sát thấy thực tế Ý thức không thể hoàn toàn nhớ lại tất cả mọi chuyện đã từng trải qua, có lúc muốn hồi tưởng lại một chuyện gì đó, một tên người nào đó, chỗ đặt một đồ vật nào đó mà đích thân từng trải qua mà không thể nào nhớ nổi. Nó phải đợi Ý căn tiếp xúc (va chạm) từ trong Thức thứ tám, thì sau đó mới khiến cho Tâm ý thức giác tri bỗng nhiên nhớ lại. Nếu như Ý thức là thức tâm cảnh tương liên, thì nó tất phải là thức trì chủng, nhất định có thể tùy ý muốn nghĩ đến chuyện năm nào, tháng nào, đời nào thì đều có thể tùy ý nghĩ đến mà không có sai lầm. Thế nhưng quan sát thực tế lại không phải vậy. Cho nên, Ý thức tuyệt đối không phải như Tịch Thiên nói là “Vì tâm cảnh tương liên, nên có thể biết như độc chuột”, mà nó nhất định bị đoạn diệt trong Ngũ vị như lúc ngủ say chẳng hạn, không thể nào nối liền tâm cảnh được. Đã không phải là pháp tâm cảnh nối liền trước sau, thì phải hiểu rằng nó chắc chắn cũng không phải là pháp trì chủng, phải đợi pháp khác mới có thể trì chủng. Tâm ý thức giác tri đã không phải là pháp bất đoạn, không thể tự mình nối liền tâm cảnh trước sau, sao có thể nói nó là pháp “tâm cảnh tương liên” được? Không thể có cái lý đó! Tịch Thiên lại vọng ngôn nói rằng “không có Tự chứng phần cũng có thể giác tri” như sau: “Kiến văn và giác tri, ở đây không che trừ, cái che ở chỗ này, khổ vì chấp đế thực”. Qua đó để nói Tâm ý thức chân thực bất hoại. Lại còn chất vấn Duy Thức tông rằng: “Nếu tâm lìa Sở thủ, chúng đều thành Như Lai. Bày đặt Duy Thức nghĩa, cứu cánh có Đức gì?” (3-2-325~326). Đây cũng là một ví dụ cho thấy sau khi hiểu sai về chân chỉ của Duy Thức tông rồi họ lại quay sang chất vấn và phủ định tông nghĩa của Duy Thức. Duy Thức tông nói: Chúng sinh hữu tình sở dĩ không thể giải thoát sinh tử mà ra khỏi Tam giới, đều do chấp thủ Tâm ý thức giác tri là Tâm chân thực bất hoại gây ra, vì thế trước hết phải đoạn trừ Ngã kiến “Ý thức thường hằng bất hoại, có thể đi lại ba đời”. Còn Tịch Thiên thì nói rằng: “Các tính kiến văn giác tri, Trung Quán tông phái Ứng Thành chúng ta không phải đoạn trừ. Cái muốn đoạn trừ trong biện chính ở đây là cái nhân của các loại khổ đau – tức là chấp trước chư pháp là thực có (Chi tiết xem câu kệ phía trên)”. Qua lời biện giải ở đây, cũng có thể thấy Tịch Thiên cũng chưa đoạn được Ngã kiến. Tịch Thiên và các thày Trung Quán phái Ứng Thành như Nguyệt Xứng, Ấn Thuận… đều cho rằng: Phật chỉ nói có sáu thức. Thế nhưng họ hoàn toàn không hay biết gì về mật ý của thức thứ bảy, thứ tám mà Phật nói ẩn hiện trong các kinh Tam thừa, vì thế mà phủ định luôn hai thức này. Đã phủ định thức thứ bảy, thứ tám rồi, thì khi chứng đắc Niết Bàn vô dư chắc chắn sẽ thành Đoạn diệt không. Chính vì thế mà các thày Trung Quán phái Ứng Thành quyết không tán đồng chuyện Phật phủ định Tâm ý thức, ngược lại còn nhất tâm xây dựng nên thuyết Ý thức còn có riêng tế tâm (Ý thức vi tế) bất hoại, nhất định không chấp nhận thuyết “Ý Pháp làm duyên sinh Ý thức, Ý thức hư vọng, không thể đi lại xuyên ba đời” mà Phật Thế Tôn đã khai thị. Vì thế mà họ đã xuyên tạc ý Phật, dẫn giải sai lệnh kinh Phật và nói rằng Ý thức bất hoại, nên họ không đoạn trừ vọng tâm Ý thức, muốn đem vọng tâm Ý thức này vào Niết Bàn. Chấp thủ vào quan niệm đó, nên trong đoạn kệ ở “Nhập Bồ Tát hành luận”, Tịch Thiên đã nói không đoạn trừ tâm tính giác tri, chỉ đoạn trừ “Ý thức chấp chư pháp là thực có”. Thế nhưng, nói như vậy hoàn toàn trái ngược với ý chỉ của Phật. Vì Phật nói muốn tu chứng quả Giải thoát thì phải đoạn trừ Ngã kiến “Ý thức thường hằng bất hoại, có thể đi lại ba đời”. Phật còn nói rõ hơn nữa rằng: “Tất cả mọi Ý thức dù là thô hay tế đều do Ý (căn) và Pháp (trần) làm duyên mà sinh ra”. Phật khai thị như thế để các đệ tử đoạn trừ hết Ngã kiến cho rằng “Ý thức thường hằng bất hoại, có thể đi lại ba đời”, sau đó tiến tới đoạn trừ sự chấp trước vào chính mình của Ý căn, trở thành La Hán giải thoát khỏi phân đoạn sinh tử ở Tam giới, khi xả thọ, diệt trừ luôn Thập bát giới chính mình, không còn lưu lại bất kỳ một quả nào, cũng không còn xuất hiện mình ở đời sau nữa, như thế gọi là nhập Niết Bàn vô dư, mới là Vô Ngã pháp của Nhị thừa thực sự. Bồ Tát sơ địa mãn tâm khi xả thọ, có thể đoạn tận Tư hoặc mà thành Huệ giải thoát, thủ chứng Trung bát Niết Bàn; Bồ Tát tam địa mãn tâm trở lên, sau khi chứng được Vô Ngã pháp thì khi xả thọ có thể đoạn tận Tư hoặc mà thành Câu giải thoát, thủ chứng Hiện bát Niết Bàn. Thế nhưng, vì Bồ Tát muốn cầu thành tựu Phật đạo cứu cánh của bản thân và quảng lợi chúng sinh, nên khi xả thọ, có thể thủ chứng Niết Bàn vô dư nhưng không nhập diệt độ, ngược lại còn phát khởi nguyện thọ sinh, bằng Tâm ý thức và Mạt Na thức thanh tịnh sau khi đã chuyển y, dựa vào Ý sinh thân mà tái thụ Hậu Hữu ở nhân gian, mãi không diệt trừ Ý thức và Mạt Na thức thanh tịnh, đời đời thụ sinh ở trong Tam giới, tiếp tục tiến tu Phật đạo và lợi ích chúng sinh, từng bước dần dần tiến đến Phật địa. Đại Bồ Tát như thế tuy không “đoạn tận Tâm Ý thức và Tâm Mạt Na để nhập Niết Bàn vô dư”, đời đời thụ sinh trong Tam giới để tu học Phật pháp, nhưng phải có tiền đề là: Bắt buộc phải đoạn Ngã kiến trước, rồi tu học “Thiền Bát Nhã” để chứng được Thức thứ tám Thực Tướng tâm – Như Lai Tạng. Nếu không, Bồ Tát cũng chẳng khác gì phàm phu, làm gì có chứng lượng Phật pháp và quả Giải thoát mà nói đây? Vì thế, việc các Bồ Tát sơ địa, tam địa mãn tâm trở lên không diệt Tâm giác tri, không đoạn trừ Tâm giác tri khác xa với việc không ngăn cản, đoạn trừ Tâm giác tri của các thày Trung Quán phái Ứng Thành (ví dụ những người như pháp sư Ấn Thuận, Tông Khách Ba, Đạt Lai Lạt Ma đều không theo Phật nói, lập riêng ra một cái tế tâm Ý thức thường trụ bất hoại, lấy đó để làm thức chủ thể khiến chúng sinh luân hồi sinh tử trong Tam giới). Bồ Tát chứng được Thức thứ tám Như Lai Tạng và tất cả các chủng tử tàng chứa trong đó mà sinh ra Đạo chủng trí, chứng biết tại chỗ sự hư vọng của Tâm giác tri, nhưng lại dùng Tâm giác tri của mình làm công cụ tu học Phật pháp, nhằm thay đổi Ngã chấp của Ý căn Mạt Na thức, để cầu chứng quả Giải thoát của Tam thừa và Nhất thiết chủng trí của Phật địa. Các thày Trung Quán phái Ứng Thành của Hoàng giáo Mật tông thì lại cố tình lờ đi lời khai thị “Ý Pháp làm duyên sinh Ý thức” của Phật Đà mà nhận định rằng Tâm giác tri ý thức là pháp thường trụ bất hoại vốn có tự tại, cho rằng Ý thức không phải là “do Ý căn và Pháp trần làm duyên sinh ra” như Phật đã nói, chính là rơi vào trong Ngã kiến, to gan trừng mắt làm trái lời Phật. Việc chưa đoạn Ngã kiến mà nói mình đã đoạn Ngã kiến và Ngã chấp như thế, thì những gì họ nói, họ tu, họ chứng đều là Ngã kiến của thường kiến ngoại đạo, còn chưa nhập vào trong pháp Kiến đạo của Tam thừa, còn đọa vào Ngã kiến của phàm phu ngoại đạo. Cho nên, tri kiến của các thày Trung Quán phái Ứng Thành như Ấn Thuận, Đạt Lai Lạt Ma, Tông Khách Ba, Tịch Thiên, Nguyệt Xứng, A Để Hạp…đều là tà kiến, khác xa với sở kiến, sở tu, sở chứng của các bậc Bồ Tát bên Hiển giáo, cũng trái ngược với Thánh giáo lượng lời Phật dạy. Những tà kiến Ngã kiến của Trung Quán phái Ứng Thành như thế, kiên trì cho rằng Ý thức thường hằng bất hoại, có thể đi lại thông ba đời, cho rằng Ý thức là thức chủ thể sinh tử luân hồi, họ đã đem thường kiến ngoại đạo kiến đó để phủ định Chủng trí phù hợp với Phật ý, thậm thâm cực thậm thâm do Duy Thức tông hoằng truyền; vu oan cho chính thuyết “Ý thức có Tự chứng phần, A Lại Da thức không có Chứng tự chứng phần” của Duy Thức tông là không khớp với những gì Phật nói. Lại còn đem chính thuyết “A Lại Da thức không có Chứng tự chứng phần, Ý thức có Chứng tự chứng phần” của Phật ra, nói lộn ngược thành “Phật nói Ý thức không có Chứng tự chứng phần, cũng không có Tự chứng phần”. Bằng cách nói lộn như thế, họ vu cho pháp mà Duy Thức tông nói là thuyết pháp sai lầm. Các thày Trung Quán phái Ứng Thành như A Để Hạp, Tịch Thiên, Ấn Thuận, Đạt Lai Lạt Ma…có tri kiến điên đảo đến mức độ này, có thể thấy họ đều là những kẻ vô tri thô thiển học mà thôi. Những kẻ vô tri vô chứng như thế mà lại dám chỉ trích Duy Thức tông rằng: “Nếu tâm lìa Sở thủ, chúng đều thành Như Lai. Bày đặt Duy Thức nghĩa, cứu cánh có Đức gì?” (3-2-325~326). Các thày Trung Quán phái Ứng Thành đều sai lầm cho rằng Duy Thức tông nói Tâm lìa Năng thủ, Sở thủ là có thể thành tựu nghĩa lý của cứu cánh Như Lai, cho rằng Tâm giác tri nếu lìa Năng thủ và Sở thủ thì sẽ như gỗ đá vô tình không có công dụng gì, sao có thể chứng được trí tuệ Bát Nhã? Cho nên, họ mới chất vấn Duy Thức tông rằng: “Như thế mà nói thành tựu Phật đạo cứu cánh, thì có ý nghĩa gì?”. Thế nhưng, Duy Thức tông nói Tâm lìa Năng thủ và Sở thủ là nói Bồ Tát chứng biết bản tính vốn lìa Năng thủ và Sở thủ của Tâm Thức thứ tám A Lại Da, cho nên khiến cho Tâm giác tri và Mạt Na thức hằng thẩm tư lượng làm chủ chuyển y vào Thể tính vốn dĩ thanh tịnh của Thức thứ tám, để đoạn trừ Ngã kiến “Tâm giác tri thường trụ bất hoại”, đoạn trừ chấp thủ vào Ngã chấp của chính mình, không còn chấp trước gì vào mình nữa. Rồi lại cũng không có chấp trước vì vào vạn pháp trong Tam giới, như thế gọi là Tâm lìa Năng thủ và Sở thủ. Bồ Tát tu hành như thế, khi từng bước thứ tự chuyển đến Phật địa mà cứu cánh không chấp trước, gọi là cứu cánh lìa Năng thủ Sở thủ, vì thế mà thành Như Lai. Tuy nhiên, Tâm giác tri ở Như Lai địa vẫn có thể phân biệt vạn pháp, mà không có mảy may chấp trước nào. Vì thế, Phật mới ở nhân gian, phân biệt các loại tà kiến của ngoại đạo và phá bỏ nó, cho đến khi nhập diệt vẫn phá tà hiển chính để cứu độ chúng sinh, chứ không phải là biến Tâm giác tri thành vô tri vô giác, không phải là Tâm giác tri không còn hiểu biết gì về Lục trần nữa. Phái Ứng Thành đã hiểu nhầm về tông chỉ Chủng trí Duy Thức, sai lầm cho rằng Duy Thức tông đã nói là: “Cần phải làm cho Tâm giác tri lìa Năng thủ và Sở thủ - mãi mãi không còn phân biệt Lục trần nữa”. Nếu như Tâm giác tri lìa Năng thủ và Sở thủ, mãi mãi không còn phân biệt Lục trần nữa thì chư Phật đều là những anh ngốc không thể phân biệt chính tà được nữa, thì Sắc thân mà chư Phật thị hiện ở nhân gian không còn biết đau ngứa gì nữa. Như thế mà nói là thành Phật, thì có ý nghĩa gì? Tôi trách người như vậy, mới là trách đúng. Nhưng nay các thày Trung Quán phái Ứng Thành đều hiểu nhầm chính nghĩa Chủng trí của Duy Thức tông, sau khi hiểu sai pháp của Duy Thức tông đã nói lộn ngược, rồi lại quay sang trách móc họ, như thế gọi là vu trách (trách oan), chứ không phải là trách đúng. Họ còn không đáng gọi là người chính trực có trí tuệ ở nhân gian, huống hồ có thể gọi là người có chứng lượng, có trí tuệ trong Phật pháp? Các thày Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông tuy cũng nói phải thấy Không tính, nhưng lại hiểu sai về Không tính nghĩa, cho rằng: “Tất thảy vạn pháp đều là Duyên khởi tính không, còn Tâm giác tri ý thức có thể hiểu biết tất thảy vạn pháp duyên khởi tính không, nó không vô hình sắc, tức là Tâm Không tính”. Vì thế mà Tịch Thiên nói thế này: “Nếu không có Tâm không tính, tạm diệt hoặc phục sinh, giống như Vô tưởng định, nên phải tu Không tính. Để cứu người ngu khổ, Bồ Tát lìa tham sợ, bi trí trụ luân hồi, đó là Không tính quả, chớ nên vọng phá trừ. Không tính lý như trên, chớ nên sinh nghi ngờ, theo lý tu Không tính”. (3-2-329) Đây chính là Không tính quan của các thày qtput – coi tất cả chư pháp ngoài Tâm đều là duyên khởi tính không, tức là Không tính. Còn Tâm giác tri thì cũng không có hình sắc, cho nên Tâm giác tri tác là Tâm Không tính. Đồng thời còn khuyên răn các hành giả Mật tông phải tu Không tính đó, muốn dựa vào sự tu chứng “Không tính” này để đoạn trừ Phiền não chướng và Sở tri chướng. Tu Phật pháp như thế, hoàn toàn không lìa khỏi phạm trù của Tâm ý thức, hoàn toàn không chạm tới Thực tướng của Pháp giới – Thức thứ tám Như Lai Tạng và tất cả các chủng tử tàng chứa trong đó. Các thày Trung Quán phái Ứng Thành tu hành như thế, chính là rơi vào trong Phiền não chướng và Sở tri chướng, thế mà lại nói láo rằng có thể đoạn trừ hai chướng. Muốn đoạn Phiền não chướng, việc đầu tiên là phải nhận thức rõ sự Duyên khởi tính không, dựa vào pháp khác mà có của Tâm giác tri, nó xưa nay chưa từng có Tự thể tính thường trụ bất hoại, như thế mà đoạn Ngã kiến. Nếu như các thày Trung Quán phái Ứng Thành lại nhận định Tâm giác tri là pháp thường trụ bất hoại, thì gọi đó là phàm phu Ngã kiến, vì trong kinh Tứ A Hàm, Phật nói đó là Ngã kiến của thường kiến ngoại đạo. Các thày Trung Quán phái Ứng Thành lại cho rằng sau khi Tâm giác tri hiểu rõ bản thân mình không có hình sắc, thì tức là thành Tâm Không tính; sau đó họ dựa vào cái “Tâm Không tính” này để không sợ nỗi khổ sinh tử, không tham trước vào pháp thế gian, mà sinh khởi lòng bi và “trí tuệ”, trụ ở thế gian để độ hóa chúng sinh, vì thế mới nói là “Để cứu người ngu khổ, Bồ Tát lìa tham sợ, bi trí trụ luân hồi, đó là Không tính quả”. Thế nhưng, cái trí trong “bi trí” này, kỳ thực chỉ là trí tuệ thế gian, không phải là trí tuệ “thế, xuất thế gian” của chư Bồ Tát, không phải như Phật nói là lấy sự hiểu biết về Tâm Không tính Thức thứ tám làm trí tuệ. Dùng cái “trí” của phàm phu Ngã kiến như thế để sinh khởi lòng bi, cứu độ chúng sinh cùng nhập vào trong Ngã kiến, mà ai nấy đều nói mình đã đoạn Ngã kiến, đã chứng Không tính, thực chất đều đọa vào trong đại vọng ngữ cả. Các thày Trung Quán phái Ứng Thành đó sở dĩ đều đọa vào trong Tâm ý thức mà ngộ nhận đó là Tâm Không tính là vì đều chấp nhận tà kiến Trung Quán phái Ứng Thành mà phủ định Thức thứ tám, cầu riêng một Tâm Không tính khác. Như Tông Khách Ba nói: “Như vậy, tiền tòa đã xong, hậu tòa chưa tu, ở giữa cũng nên hành việc thiện, đó chính là thanh tịnh thọ dụng du già (yoga). Nghĩa là tự ức trì Chủ tôn thiên mạn, khi căn duyên vào cảnh, nên quán các cảnh thể là chư thiên, do họ cúng dường. Nếu dựa vào pháp tổng thanh tịnh, nên quán tất thảy đều coi (Không Lạc) vô nhị, trí vô thể, Kim Cương trì là tướng. Nếu tu thanh tịnh cá biệt, thì nên quán sắc là Tỳ Lô (Phật), thanh là Bất Động (Phật), hương là Bảo Sinh (Phật), vị là Di Đà (Phật), xúc là Bất Không (Phật), đó là thanh tịnh phương tiện. Nếu dựa vào pháp huệ thanh tịnh, nên quán ngũ cảnh là ngũ thiên nữ như sắc Kim Cương…mà tu cúng dường. Lại lấy tam luân bất khả đắc huệ mà tùy ý trì. Nếu có thể dựa vào chính niệm trong tất cả các thời, tức là nhanh chóng có thể viên mãn phương tiện nhị tư lương”. (21-539) Như vậy, các thày Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông đều vì không thể chứng được Tâm Thức thứ tám, cho nên phủ định Tâm Thức thứ tám là Như Lai Tạng, không chịu thừa nhận có Tâm Thức thứ tám là Như Lai Tạng, vì thế mà đọa vào cảnh giới của Ý thức, dựa vào cảnh giới tương ứng với Ý thức để cầu chứng thể của Bát Nhã, theo đó coi “Lạc Không vô nhị trí” trong pháp tu song thân làm thể. Từ đây lại sinh thêm tà kiến, đem phối Ngũ trần với Ngũ Phật, tự rơi vào trong tà kiến. Việc lấy “Lạc Không vô nhị trí” trong pháp giới Ngũ trần làm thể Bát Nhã như thế, khác xa so với việc lấy Bản lai Tự tính Thanh tịnh Niết Bàn của Thức thứ tám “Phi Tâm Tâm, Vô Tâm Tướng Tâm” làm thể của Bát Nhã mà Phật đã nói, thì sao có thể gọi là Phật pháp được? lại còn hạ thấp chính pháp mà Hiển giáo hoằng truyền, tự tôn mình là cao hơn pháp của Hiển giáo. Kỳ thực vẫn còn đọa vào trong vũng bùn tà kiến của ngoại đạo, thày trò đều không thể tự đứng dậy được, thì có chỗ nào cao hơn được đây?
|
Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |