The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 3: Bát Nhã kiến trong Trung quán phái Ứng Thành của Mật tông (nửa dưới) -2

 Các thày Mật tông không đoạn trừ được tà kiến “Tâm giác tri hằng thường bất hoại” nên không đoạn được Ngã kiến; họ không đoạn trừ được tà kiến “Tâm giác tri hằng thường bất hoại” nên càng không đoạn được Ngã chấp, mà họ lại coi việc “yêu người mà bỏ mình” là đoạn Ngã chấp. Vì thế họ đi ngược với ý chỉ của Phật trong pháp Tiểu thừa mà nói rằng: “Như tinh noãn người khác, vốn không phải thân ta, vì thói quen lâu ngày nên chấp thủ, tinh noãn tụ làm ta. Chỗ thân người khác đó, sao không chấp làm ta? Thân mình đổi thân người, cho nên cũng không khó. Thân mình tội lỗi nhiều, thân người công đức lớn, biết mình nên tu tập, yêu người bỏ ngã chấp”. (3-2-297)

Những lời nói đó của Tịch Thiên nghĩa là dùng tâm thương yêu chúng sinh để tu pháp giao hoán tự tha (chuyển đổi giữa mình với người khác). Trong quá trình tu tập pháp giao hoán tự tha, từng lớp từng lớp tu trừ Ngã chấp. Thế nhưng, trong pháp Nhị thừa, Phật Thế Tôn của chúng ta nói người muốn đoạn Ngã chấp, phải hiện tiền quan sát cái Ngã thập bát giới trong tứ uy nghi (bao gồm cả Tâm giác tri ý thức và Mạt Na thức tư lượng làm chủ) đều là pháp hư vọng, giả có. Phải hiện quan như thế để đoạn Ngã chấp, chứ không phải như pháp môn quán hành giao hoán tự tha do Mật tông tự mình phát minh ra. Hành môn mà pháp giao hoán tự tha phải tu mãi mãi có Tâm ý thức “Tâm giác tri Ngã thường trụ bất hoại” tồn tại, còn không thể đoạn Ngã kiến, huống hồ có thể đoạn Ngã chấp? Cho nên, những gì họ nói đều phi lý.

Trong pháp Đại thừa thì không chỉ hiện tiền quan sát hai cái Ngã Tâm giác tri ý thức và Mạt Na thức tư lượng làm chủ đều là hư vọng, mà còn phải hiện tiền chứng được Thức thứ tám, hiện quan Tâm Thức thứ tám sinh ra bảy thức đầu như thế nào? Hiện quan Thức thứ tám làm thế nào để sinh ra sắc thân? Hiện quan Thức thứ tám làm thế nào sinh ra tâm hành kiến văn giác tri của chúng sinh? Hiện quan mối quan hệ giữa Thức thứ tám và các loại phiền não. Vì chứng được bày thức đầu đều là hư vọng như thế, đoạn tận Ngã kiến, sau đó cũng hiện quan tương tự mà đoạn Ngã chấp, nhờ đó mà sinh ra Biệt tướng trí và Nhất thiết chủng trí của Bát Nhã.

Người Mật tông muốn đoạn Ngã chấp bằng quán hành pháp giao hoán tự tha, việc này tuyệt đối không thể làm được, chỉ có thể là tự cho rằng mình đã đoạn được Ngã chấp mà thôi, chứ không phải là có thể đoạn được Ngã chấp thật sự, không phải là chính tu của Phật pháp thực sự. Những người Hoàng giáo của Mật tông sở dĩ đoạn vào trong tà kiến này, nguyên nhân lớn nhất của nó là đã phủ định Thức thứ tám. Vì phủ nhận sự tồn tại của Thức thứ tám, nên họ không có được nhân duyên chứng đắc Tâm Thức thứ tám, thì chỉ có thể cầu Phật pháp ở bên ngoài Thức thứ tám Thực Tướng tâm này, tức là thành ngoại đạo cầu pháp ngoài Tâm. Trước nhân duyên chìm đọa như thế, tất cả mọi người học Phật đều nên lấy đó làm gương, đừng có phỉ báng chính pháp Duy Thức nữa mà tự cản trở nhân duyên chứng đắc trí tuệ Bát Nhã của mình trong tương lai.

Vì Hoàng giáo Mật tông phủ định Thức thứ tám, nên đọa vào trong “Vô ngã đoạn diệt luận” của “Vô nhân luận”, cuối cùng trở thành tông đồ đoạn hết nhân quả. Như Tịch Thiên nói: “Nếu ta không phải là thực có, nghiệp quả là phi lý, nghiệp tạo rồi sẽ diệt, thì ai chịu nghiệp báo? Kẻ làm, kẻ chịu khác nhau, lúc nhận quả báo thì kẻ làm đã chết. Ta và ngươi nếu có cộng hứa (cùng chấp nhận một lập luận)[1], thì tranh luận điều này có nghĩa lý gì?” (3-2-337).

Tịch Thiên chấp trước rằng Tâm giác tri nhất định có thể đi đến được đời sau, cho nên Tâm giác tri của người tạo nghiệp đời này sẽ phải chịu quả báo ở đời sau, cho rằng cái đạo lý chịu quả báo như thế mới là có ý nghĩa. Nếu như người tạo nghiệp ở đời này (Tâm ý thức) đã tạo nghiệp rồi, không thể đi đến được đời sau, mà đời sau lại có một Ý thức khác hoàn toàn mới phải chịu quả báo của nghiệp đời này thì Tịch Thiên không chịu chấp nhận lý này. Nhưng ông ta không biết rằng Mạt Na thức và Thức thứ tám Như Lai Tạng vẫn đi đến đời sau và sinh ra một Ý thức khác hoàn toàn mới để chịu quả báo. Quả báo như thế, “Bồ Tát Ưu Bà Tắc giới kinh” nói là “phi tự tác tự thụ, phi dị tác dị thụ”. Tâm giác tri ở đời này không đi đến đời sau để chịu quả báo, cho nên Tâm giác tri chịu quả báo của đời sau không biết vì sao mà phải chịu quả báo này, cho nên mới nói là “phi tự tác tự thụ - không phải là tự làm tự chịu”. Thế nhưng, Mạt Na thức và Thức thứ tám đi được đến đời sau, rồi sinh ra Tâm giác tri hoàn toàn mới để chịu quả báo của chính mình, cho nên mới gọi là “phi dị tác dị thụ - không phải là người khác làm người khác chịu”. Chính lý như vậy, mà các thày Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông còn chưa có đủ duyên để được nghe, huống hồ là có thể biết? huống hồ có thể chứng? huống hồ bọn họ đã phủ định thức thứ bảy, thức thứ tám rồi, chắn chắn không có nhân duyên để chứng, thì sao có đủ nhân duyên để chứng biết đạo lý này? Tất cả mọi người học Phật môn đều nên lấy ví dụ này làm gương, đừng có tùy tiện phủ định pháp Thức thứ tám Như Lai Tạng, nếu không nhất định sẽ thành nhân duyên chướng đạo, không thể không cẩn thận được đâu.

Các thày Mật tông hiểu nhầm về lý Không tính Bát Nhã cực kỳ nghiêm trọng, ai nấy đều coi “chư pháp vô thường không có thật, Tâm giác tri vô hình vô sắc như hư không” là Không tính, cho nên nói rằng: “Bởi vì chư pháp Không, làm gì có được mất? Ai người cung kính ta? Ai muốn khinh miệt ta? Khổ lạc từ đâu sinh? Làm gì có lo vui? Nếu tìm ở trong Tính, đâu là kẻ yêu và đâu là kẻ bị yêu? Xét kỹ người đời này, ai sẽ từ bỏ đời này? Ai là kẻ sinh ra, ai là người bị sinh ra? Đâu là thân là bạn? Cùng với ta thụ trì: tất thảy tựa hư không”. (sách 3-2, trang 356, 357)

Đó là bài kệ mà “Bồ Tát” Tịch Thiên nói trong bài viết “Làm rõ Chân thực nghĩa” của phần “Khuyến tu Không tính” trong cuốn sách “Nhập Bồ Tát hành luận”. Ý trong bài kệ này là, coi tất cả vạn pháp đều là hư vọng, vô thường, chung quy về Không, coi cái Không đoạn diệt như thế là đạo lý của Không tính Bát Nhã. Ông ta cũng coi Ngũ âm vô thường không, thân hữu vô thường không…coi là “Không tính”, cho nên nói “tất thảy tựa hư không”, coi đó là Không tính. Đó là toàn bộ nhận thức của Tịch Thiên đối với Không tính.

Thế nhưng, Không tính mà Phật Thế Tôn tuyên thuyết là chỉ Tâm Thức thứ tám mà tất thảy mọi chúng sinh ai cũng đều có, nó mãi mãi lìa kiến văn giác tri, hằng lìa tham nhiễm, không bám chấp vào tất cả vạn pháp trong Tam giới, bản tính thanh tịnh, cho nên gọi là Không tính, chứ không phải là nói về sự vô thường không của Ngũ âm và chư pháp. Tịch Thiên khai thị về Không tính như thế, không hề khớp với nghĩa lý Không tính mà Phật nói, như thế mà khuyên người ta tu Không tính, như thế mà gọi là “Làm rõ Chân thực nghĩa”, rõ ràng là phi Phật pháp, vì không phải là Không tính mà Phật dạy, không phải là Chân thực nghĩa của Phật pháp.

Qua nội dung nói trong “Nhập Bồ Tát hành luận” của Tịch Thiên, có thể chứng minh được rằng trong Thập trí của Giải thoát quả, Tịch Thiên chỉ chứng được Thế tục trí đầu tiên, còn chưa thể chứng được Pháp trí và Loại trí của Giải thoát quả, càng không thể chứng được Tận trí và Vô sinh trí phía sau. Nghĩa là Tịch Thiên cũng chỉ như người thế tục, chứng biết được sắc thân vô thường, mà vẫn không biết Tâm giác tri cũng vô thường, vẫn còn chấp trước Tâm giác tri hằng thường bất hoại, có thể đi đến kiếp sau. Vì thế mà cuốn luận của ông ta tuy có nói thân người Ngũ âm là vô thường, nhưng thực tế vẫn chưa thể biết một cách thực sự về tướng vô thường của Ngũ âm, vì vẫn còn chấp Thức âm trong Ngũ âm là Chân Như, còn chấp Tâm giác tri thức thứ sáu trong Ngũ âm là pháp thường trụ bất hoại, chẳng khác gì thường kiến ngoại đạo cả.

Còn về Kiến đạo của pháp Đại thừa, Tịch Thiên càng chẳng có lý luận gì hết! Vì sao vậy? Vì Kiến đạo của Đại thừa buộc phải chứng được Thức thứ tám Như Lai Tạng trước, sau đó mới sinh khởi Pháp trí và Loại trí của Bát Nhã. Từ Pháp trí và Loại trí của Bát Nhã, tất sẽ đồng thời phát khởi Khổ trí, Tập trí, Diệt trí, Đạo trí và Tri tha tâm trí (đây không phải là Tri tha tâm trí của Tha tâm thông, độc giả chớ hiểu lầm) trong Thập trí của quả Giải thoát. Như thế vẫn còn chưa có đầy đủ các trí giải thoát, huống hồ là phàm phu Tịch Thiên còn chấp Ý thức bất diệt và rơi vào trong Ngã kiến, có thể biết được Tận trí và Vô sinh trí đằng sau? Vì trí tuệ hạ địa (cảnh giới thấp) không thể chứng biết được trí tuệ thượng địa (cảnh giới cao), nên kẻ Ngã kiến chưa đoạn mà chấp “Ý thức bất hoại” sẽ không thể chứng được Pháp trí và Loại trí của Giải thoát trí. Cứ cho là có đủ Thập trí trong Giải thoát trí của Thanh Văn, thì cũng không thể chứng được một chút Tổng tướng trí Bát Nhã mà Bồ Tát Đại thừa chứng được, huống hồ là Biệt tướng trí và Chủng trí thâm diệu đằng sau?

Nay thấy Tịch Thiên còn chưa đắc Kiến đạo của Đại thừa, cũng chưa thể chứng được đạo Giải thoát của Nhị thừa, cho nên cái việc tu chứng Không tính mà ông ấy luận thuật chưa hề vượt ra khỏi ngoài cái trí tuệ đầu tiên của Thập trí trong Giải thoát trí. Lại càng chưa thể chứng được Như Lai Tạng, sai lầm cho rằng Tâm giác tri thức thứ sáu (chỉ cần) không sinh vọng niệm, vọng tưởng, cũng không chấp trước chư pháp, như thế gọi là đã chứng được Không tính. Ông ta hoàn toàn không biết gì về chính nghĩa Không tính mà Bát Nhã nói tới, ngộ nhận Ý thức là Tâm Không tính nói trong chư kinh Bát Nhã, căn bản vẫn là thường kiến ngoại đạo kiến, vẫn chỉ là tri kiến của phàm phu. Tịch Thiên đã phủ định Thức thứ tám A Lại Da, không thừa nhận A Lại Da thức là thực có, cho nên có thể thấy Tịch Thiên đích xác chưa từng chứng ngộ Thức thứ tám A Lại Da. Ông ta cũng không biết A Lại Da thức chính là Như Lai Tạng – tức là Chân Như ở Phật địa trong tương lai, chứng tỏ đối với pháp Đại thừa, Tịch Thiên căn bản không hề biết, không hề chứng được trí tuệ Bát Nhã, còn không phải là Bồ Tát thất trụ vị trong Biệt giáo, vì chưa chứng đắc Như Lai Tạng. Ông ta cũng không phải là Bồ Tát lục trụ vị, vì chưa hề đoạn Ngã kiến, vẫn còn cho rằng Tâm giác tri là Như Lai Tạng. Như thế tức là người còn chưa cả tu Tứ gia hành trong Hiển giáo cho đến đoạn Ngã kiến, tức không phải là Bồ Tát lục trụ vị, bởi Bồ Tát lục trụ vị bắt buộc phải tu Tứ gia hành của Hiển giáo để song chứng Năng thủ và Sở thủ Không, vì Tâm giác tri chính là tâm Năng thủ, bởi Tâm giác tri chắc chắn tương ứng với Lục trần cảnh Sở thủ.

Tịch Thiên còn chưa chứng được Pháp trí của Thanh Văn, cũng chưa chứng được Pháp trí của Đại thừa, vẫn chưa thể nhập vào Bồ Tát lục trụ vị, thì sao có thể mù quáng suy tôn ông ấy là Bồ Tát sơ địa được? Lại nữa, Bồ Tát sơ địa đều đã chứng được một phần Vô sinh pháp nhẫn, mà Vô sinh pháp nhẫn muốn có thì phải từ việc chứng đắc một phần Nhất thiết chủng trí để đắc Đạo chủng trí mới được; còn Đạo chủng trí muốn có thì phải từ sau khi chứng được Thức thứ tám A Lại Da mới có thể tiến tu theo thứ tự mà chứng đắc. Vì thế, Tổng tướng trí, Biệt tướng trí, Nhất thiết chủng trí trong Chủng trí Bát Nhã đều bắt buộc phải lấy việc chứng đắc Thức thứ tám A Lại Da làm Nhân, thì sau này mới chứng được. Nay, Tịch Thiên đã phủ định Thức thứ tám A Lại Da, không thừa nhận có Thức thứ tám A Lại Da, thì sao có thể gọi là người chứng được Thức thứ tám? Đã là người không chứng được Thức thứ tám, căn bản không thể hiện quan được sự vận hành của Như Lai Tạng, thì không thể nào có được Tổng tướng trí Bát Nhã của Bồ Tát thất trụ vị, huống hồ có thể có được Biệt tướng trí cho đến Chủng trí? Còn không thể biết được Mật ý của Bát Nhã tức là thể tính của Thức thứ tám, mà trong luận của mình, ông ta còn phủ định Thức thứ tám, duy chỉ thừa nhận có sáu thức, lại coi tất thảy pháp không là Không tính, hiểu sai về Trung Quán Bát Nhã, mà lại dùng Trung Quán kiến hiểu lầm đó để phủ định Chủng trí Thức thứ tám Như Lai Tạng mà người Trung Quán thật sự cần tiến tu, đem nghĩa lý Duy Thức mà mình đã hiểu lầm để phỉ báng chính nghĩa Duy Thức thực sự, loạn bình và phá hoại các pháp Chủng trí của Duy Thức, thì sao có thể gọi là người Kiến đạo được? Còn không phải là Bồ Tát thất trụ vị mới Kiến đạo, huống hồ có thể xưng là Bồ Tát sơ địa? Không có cái lý ấy! Cho nên Tịch Thiên một đời hoằng dương tà kiến Trung Quán phái Ứng Thành, bảo đó là hoằng dương chính pháp, nhưng thực tế bản chất lại là phá hoại chính pháp, tất cả đều do tin theo tà kiến Trung Quán phái Ứng Thành gây ra.

Người hoằng truyền Trung Quán phái Ứng Thành không phải chỉ có một mình Tịch Thiên mà còn có nhiều người khác nữa. Ví dụ như A Để Hạp cũng coi “tất thảy pháp duyên khởi tính không” sau khi đã phủ định Như Lai Tạng là Trung Quán kiến. Ông ta viết trong “Trung Quán yếu quyết” rằng:

“Một, Trung Quán căn bản kiến: Chúng ta trước tiên nhất định phải hiểu rằng: Trên thế tục, với cái nhìn thiển cận của phàm phu mà nói, tất cả mọi pháp, tất cả mọi sự kiến lập nhân quả, đều chân thực như chúng đang hiển hiện trước mắt. Nhưng đứng ở Thắng nghĩa hoặc Chân thực nghĩa, bản thân các hiện tượng đang hiển hiện đó, nếu giải tích bằng các chính nhân lớn thì cũng không thể đạt được phần vi lượng của 1% đầu sợi tóc. Hai, Tư duy tu: Sau đó ngồi kiết già trên đệm thoải mái (Chú thích gốc: làm quán tu như sau): Hữu vi pháp có hai loại, Sắc pháp và Phi sắc pháp. Trong đó, các sắc pháp là tập hợp của vật chất cực vi tế (cực vi trần). Lại nữa, nếu như phân chia nó bằng phép chia phần vuông, thì dù là vật chất nhỏ bé nhất cũng không thể thừa ra, không có cái gì hết. Còn phi sắc pháp là Tâm, nó như thế này: Cái tâm quá khứ như lửa đã tắt, cái tâm tương lai thì vẫn chưa sinh ra, còn cái tâm hiện tại thì lại cực khó quan sát như thế này: nó vô sắc lìa hình, tựa như hư không, không có gì cả, hoặc vì lìa một hay nhiều, hoặc vì không sinh, hoặc vì tự tính quang minh… Nếu như quan sát, phân tích bằng lợi khí chính lý, thì có thể lý giải nó không thành lập… Ba, Căn bản vị tu Vô phân biệt huệ: Khử bỏ tất cả mọi lỗi lầm hôn trầm và điệu cử, trong cái sự trống rỗng không trầm không điệu đó, Tâm thức không cần thực hiện bất cứ sự tầm tư nào, cũng không cần chấp thủ bất cứ ý niệm nào, đoạn trừ tất cả mọi ức niệm và tác ý. Trước khi có ý niệm, hoặc kẻ địch, thổ phỉ trong tâm phân biệt phun trào ra, hãy cố gắng hết sức để Tâm thức an trụ ở trạng thái đó. Bốn, Hậu đắc vị tu như huyễn chư thiện: Một khi tưởng xuất định rồi, thì từ từ mở chân ngồi kiết già để đứng lên, bằng tâm ý như huyễn ảo, tận khả năng thực hiện các thiện hành nơi thân ngữ (khẩu) ý. Năm, Tu Không lợi ích: Nếu như tu tập như vậy một cái cung kính dài lâu, không gián đoạn, thì những người có thiện căn sẽ hiện kiến Chân đế ở đời này, đồng thời hiện chứng “Tất thảy pháp tựa như vầng trăng trong không trung, không cần nỗ lực, không cần chuyên tu, tự nhiên sẽ được thành tựu”. Sáu, Tu đạo thành Phật: Cái (Chú thích gốc: Hậu đắc trí) có được sau khi xuất khỏi cái (Chú thích gốc: Căn bản định) này, chính là hiểu biết tất cả mọi pháp như huyễn ảo… Sau khi đến hiện chứng Kim Cương dụ định, Hậu đắc trí cũng không còn nữa, tất cả mọi lúc đều ở trong Đẳng dẫn Tam ma tư đa. Nếu không, (Chú thích gốc: Phật) và Bồ Tát có gì khác nhau? Giáo lý trên mấy phương diện này, ở đây không nói nữa”. (6-281, 282)

Trung Quán thực sự, bất luận trong chư kinh Tứ A Hàm hay trong các kinh Bát Nhã của Nhị chuyển pháp luân, hay các kinh hệ Duy Thức của Tam chuyển pháp luân đều lấy Trung Đạo tính của Như Lai Tạng làm chủ thể của Trung Đạo quan, dựa vào Trung Đạo tính của Thức thứ tám Như Lai Tạng để quán hành, chứng biết Trung Đạo tính của Thức thứ tám Như Lai Tạng, gọi là Bát Nhã. Cũng dựa vào sự chứng biết của Nhất thiết chủng tử (tất thảy mọi chủng tử) trong Thức thứ tám Như Lai Tạng để thành tựu Nhất thiết chủng trí.

Nay, A Để Hạp lại coi cái Không nhờ “hiện quan” Ngũ âm là Không tính. Ông ta lại hiểu sai Ngũ âm, cho rằng Ý thức trong Thức âm (Tâm giác tri) không có hình sắc cho nên gọi là Không tính, như thế không phải là hiện quan chân thực Ngũ âm vô thường không. Thế nhưng, trong các kinh Tam thừa, Phật đều nói đó là “Không tướng” của Ngũ âm – vì duyên khởi nên tính nó (như là) Không, và coi Tâm Thức thứ tám là Không tính. Tâm ý thức giác tri là vọng thức phải dựa vào pháp khác mà sinh ra, vì trong các kinh hệ Bát Nhã đều nói Ý thức có tướng pháp, Ý thức đến (tương ứng) với Lục trần tướng. Trong chư kinh Tứ A Hàm, còn nói Tâm Ý thức giác tri là “tâm thường bất hoại” mà thường kiến ngoại đạo hay nói đến. A Để Hạp dựa vào sự không hình không sắc của Ý thức để nói rằng nó là Không tính bất hoại, chứng tỏ A Để Hạp vẫn còn chưa đoạn Ngã kiến, cũng chưa chứng được Thức thứ tám A Lại Da, chứng tỏ ông ta còn chưa có một phần công đức Kiến đạo trong Phật pháp Tam thừa, vẫn còn trong Ngũ trụ vị của Biệt giáo, chưa chứng được “song ấn Năng Sở thủ không” mà các Bồ Tát lục trụ vị đã chứng được.

Lại nữa, A Để Hạp cho rằng khi đả tọa đạt đến nhất niệm bất sinh, không rơi vào trong trạng thái hôn trầm hay điệu cử, cũng không ức niệm tất cả các pháp thì là chứng được Căn bản định, coi đó là Quyết định trí “Căn bản Vô phân biệt trí”. Như thế hiển nhiên là đã hiểu nhầm về chính nghĩa Căn bản Vô phân biệt trí của Phật pháp. Căn bản Vô phân biệt trí trong Phật pháp là chứng đắc Thức thứ tám, hiện kiến thấy nó tùy duyên nhậm vận trong tất cả mọi cảnh duyên mà đều không hề có sự phân biệt nào, như thế mới là chứng được Căn bản Vô phân biệt trí; Việc an trú ở định kiến này, không còn sinh nghi ngờ mà chuyển dịch sang tri kiến khác như vậy mới được gọi là Căn bản định, chứ không phải là lấy việc Tâm ý thức giác tri bất động, gọi đó là Căn bản định của Vô phân biệt trí.

A Để Hạp lại cho rằng: Sau khi đạt đến nhất niệm bất sinh trong định thì tức là đạt Kim Cương dụ định. Ra bên ngoài định cảnh, lại quán tưởng nó bằng tất thảy pháp như huyễn, đồng thời lìa khỏi tất cả mọi trí tuệ, Hậu đắc trí cũng không có nữa, an trú ở ngoài định trong trạng thái như vậy, đồng thời không khởi tâm phân biệt với tất thảy các pháp, tức là đang trụ ở trong Đẳng dẫn vị, như thế tức là đã thành Phật đạo cứu cánh rồi. Thế nhưng, với cảnh giới như vậy, trước sau vẫn không đoạn trừ được “Ngã kiến” mà thường kiến ngoại đạo rơi vào, vì từ đầu đến cuối vẫn coi Tâm ý thức giác tri là Tâm Không tính bất hoại, chưa hề chứng được Thức thứ tám. Người không chứng được Thức thứ tám, còn chưa thể hiểu được Tổng tướng trí của Bát Nhã, thì sao có thể biết được Biệt tướng trí của Bát Nhã? Huống hồ là biết được Nhất thiết chủng trí? Không chứng, không biết Nhất thiết chủng trí mà tự nói đã thành Phật đạo, làm gì có cái lý đó! Bởi lẽ Bát Nhã lấy Vô phân biệt tính, Trung đạo tính, Niết Bàn tính của Thức thứ tám làm thể, lìa Thức thứ tám thì không thể có quán hành về Trung đạo lý.

Tất cả chư Phật Bồ Tát sau khi Kiến đạo ở Nhân địa, không những Căn bản Vô phân biệt trí của Kiến đạo vẫn luôn có, mà cho đến Tu đạo vị sau (giai đoạn) Kiến đạo, vẫn tiếp tục duy trì Căn bản Vô phân biệt trí như lúc Kiến đạo, trong tất cả các quả vị sau khi bắt đầu Tu đạo – bao gồm cả sau khi thành Phật – cũng đều luôn giữ được Căn bản Vô phân biệt trí của Kiến đạo, khiến cho Căn bản Vô phân biệt trí của Kiến đạo và Hậu đắc Vô phân biệt trí có được lúc Tu đạo đồng thời tồn tại, không xung đột, chứ không phải như A Để Hạp nói: “Hậu đắc trí cũng không có nữa, an trú ở ngoài định trong trạng thái như vậy, đồng thời không khởi tâm phân biệt với tất thảy các pháp, tức là đang trụ ở trong Đẳng dẫn vị, như thế tức là đã thành Phật đạo cứu cánh rồi”.

Nếu như chư Phật Bồ Tát đều như A Để Hạp nói: xem “liệu có đang trụ ở Đẳng dẫn hay không để xác định liệu anh ta có phải là đang trụ ở công đức Phật địa hay không”, thì có lẽ chư Phật Bồ Tát đều có lúc thành Phật Bồ Tát, có lúc thành phàm phu, tất đều vì có trụ ở Đẳng dẫn vị của Thiền định mà dẫn đến sự khác biệt. Pháp của Phật giáo nếu giống như A Để Hạp nói, thì Kiến-Tu-Hành-Quả của Phật giáo sẽ chẳng còn chỗ nào đáng quý nữa cả, vì chẳng khác gì pháp (tu) định của tu hành ngoại đạo, vì “đã thành Phật” không phải là mãi mãi thành Phật, thành Bồ Tát “Kiến đạo vị, Tu đạo vị” cũng không phải mãi mãi là Bồ Tát Kiến đạo vị, Tu đạo vị nữa, sẽ đều vì việc anh ta liệu có trụ ở Đẳng dẫn vị hay không để quyết định anh ta có Căn bản trí và Hậu đắc trí hay không; đều vì anh ta liệu có trụ ở Đẳng dẫn vị hay không để quyết định anh ta liệu có trụ ở trí tuệ Phật vị hay không. Cho nên mới nói câu nói này của A Để Hạp mắc phải sai lầm lớn, bởi vì (sự thực là) chư Phật Bồ Tát bất luận là có trụ ở Đẳng dẫn vị hay không, thì Căn bản và Hậu đắc Vô phân biệt trí mà họ đã chứng được đều hằng thời hiện khởi, không gián đoạn trong khi Ý thức của họ ở hiện hành vị, không vì chuyện họ không trụ ở Đẳng dẫn vị mà không hiện khởi, cũng không vì chuyện họ “thành Phật” và trụ ở Đẳng dẫn vị thì sẽ khiến cho Hậu đắc trí biến mất.

Các thày Trung Quán phái Ứng Thành sở dĩ tinh tấn tu hành mà không có chút thành tựu nào, dẫn đến buộc phải phủ định Thức thứ tám Như Lai Tạng, buộc phải phủ định chư kinh ở Tam chuyển pháp luân và đọa vào trong tà kiến của ngoại đạo, thành tựu tội địa ngục vì đại vọng ngữ và phá hoại chính pháp, tất cả đều có nguyên nhân từ việc ngay từ đầu họ đã phủ định Thức thứ tám, không tin Phật Thế Tôn nói có Thức thứ tám, không biết trong các kinh Tam chuyển pháp luân Phật đều nói có Thức thứ tám, không biết Phật nói Kiến đạo ở Đại thừa coi việc chứng được Thức thứ tám Như Lai Tạng là nội dung Kiến đạo, ngộ nhận cho rằng phải nhập trụ trong định ở trạng thái nhất niệm bất sinh, coi kiến giải Tâm giác tri và định cảnh mà nó đang trụ là “phi nhất phi dị” là nội dung của Kiến đạo và Tu đạo, cho nên tà thuyết của A Để Hạp mới lưu truyền đến tận ngày nay. Thành ra, tất cả người học, thượng sư của Mật tông đều gọi việc Tâm giác tri trụ ở trong cảnh giới nhất niệm bất sinh là chứng được Căn bản Vô phân biệt trí, đều cho rằng sau khi chứng được cảnh giới này thì tiến tới hiểu biết, nhận thức rõ về chư pháp ở ngoài định mà không sinh tâm chấp trước, gọi đó là Hậu đắc Vô phân biệt trí. Trong đoạn khai thị này, A Để Hạp còn cho rằng cảnh giới lìa tất cả mọi giác tri, phân biệt là cảnh giới thành Phật, cho nên mới nói rằng trụ ở trong Đẳng dẫn vị khiến cho Hậu đắc trí không còn tồn tại nữa, tức là thành tựu Phật quả cứu cánh. Từ tà kiến này – không biết trí tuệ Bát Nhã coi tính Thức thứ tám là thể - cho nên phủ định luôn các pháp Chủng trí của Duy Thức, phủ định cả Thức thứ tám, vì thế mà tu học Phật pháp bên ngoài Thức thứ tám, trở thành tín đồ cầu pháp ngoài tâm, dẫn đến thành tựu trọng tội đại vọng ngữ, thật đúng là những kẻ đáng thương. Những người học có trí chớ có học theo họ để tránh chướng đạo và quả báo khốc liệt trong tương lai.

Không chỉ có A Để Hạp phủ định thức thứ bảy, thức thứ tám, mà vị thày Trung Quán phái Ứng Thành Tây Mật Tông Khách Ba cũng chủ trương dùng “trí tuệ” của pháp tu song thân làm pháp thể, cho nên không cần có thức thứ bảy, thức thứ tám: “…Năng y, Sở y thanh tịnh, Du Già bộ tuyên thuyết thanh tịnh về pháp công đức như đức tin. Trong Vô thượng bộ đều nói đạo thanh tịnh và các Uẩn thanh tịnh. Để ngăn vọng chấp Năng y, Sở y, như các tình khí chưa thanh tịnh, cái Thể đều khác nhau, cho nên nói cung điện thanh tịnh. Để ngăn vọng chấp chư tôn bản thể khác nhau, cho nên nói thiên thanh tịnh. Chỉ dựa vào tướng phần trí tuệ của chủ tôn như vậy, hiện khởi tướng Mạn đà la Năng y và Sở y (hiện khởi tướng Mạn đà la của nữ âm (bộ phận sinh dục) Năng y Sở y), lìa khỏi nó thì càng không có Thể, cho nên tất cả những thứ đó đều coi trí tuệ (tất cả mọi trí tuệ đều lấy trí tuệ Lạc Không bất nhị của pháp tu song thân) làm Thể”. (21-372)

Xây dựng Sắc uẩn, Tâm giác tri, Tham đạo, cung điện quán tưởng, Bản tôn quán tưởng, Mạn đà la Không Hành Mẫu dùng để tu (Mạn đà la hạ thể của Minh Phi)…tất cả đều thanh tịnh như vậy, tức là lấy trí tuệ Lạc Không bất nhị trong pháp tu song thân làm Thể của Bát Nhã. Như thế là tức thân thành Phật của Lạc Không bất nhị, là xây dựng pháp môn tu hành quả vị cứu cánh thành Phật của tức thân thành Phật của Mật tông. Kỳ thực, tất cả đều được xây dựng trên sự vọng tưởng, tà trái sai lầm, nhưng họ lại dựa vào đó để hạ thấp pháp môn chứng đạo tu hành thực sự của Hiển giáo là pháp hạ đẳng của tu hành Nhân địa, đảo lộn gốc ngọn đến như vậy.

Tông Khách Ba coi cái Lạc trong Song thân pháp là Thực tính của Pháp, cho nên không cần đến thức thứ bảy, thức thứ tám. Quan niệm này có thể thấy rải rác trong các trước tác của ông ta, đâu đâu cũng thấy. Xin lấy một ví dụ ra để làm chứng. Tông Khách Ba viết trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” thế này:

“…Che tả hữu phong như thế, đi vào Trung mạch bất động, công năng mệnh lực từ đây mà viên mãn. Sau đó phải tu chấp trì, để “ở Trung mạch vững bền an trụ vào quả phi mệnh lực” thì phải nhờ chấp trì mới có thể thực hiện được. Cho phong nhập Trung mạch, nhập rồi và an trụ, tiếp theo dùng sức mạnh Du già mãnh liệt tùy niệm, đốt bùng lửa mạnh, hòa tan các giới (hòa tan các chủng tử - tinh dịch), giáng hạ đến đầu chót Kim Cương (giáng hạ đến quy đầu), không tiết xuất ra ngoài (không phóng tinh ra ngoài), hoàn thành diệu lạc Câu sinh bất biến (vì lý do hạ giáng đến đấy mà không xuất tinh, nên có thể đạt đến diệu lạc đệ tứ hỷ mà từ khi sinh ra vốn dĩ đã bất biến)…Hòa tan Bồ Đề tâm (hòa tan vật chất Bồ Đề tâm – tinh dịch), giữ chặt không xuất mà tu diệu lạc bất biến. Từ chi thứ sáu tu thành sắc ở hai chi đầu, tự thành cái thân Không sắc phụ mẫu ở Dục thiên, tùy ái đại ấn mà đắc lạc bất biến (giữ chặt ở quy đầu mà không xuất ra để tu đệ tứ hỷ chí lạc cực khoái tình dục), triển chuyển tăng thượng (mỗi ngày tu tám thời, để nó xoay vần tăng trưởng); cuối cùng đoạn tận mãi mãi tất thảy Sắc uẩn thô… thân này biến thành thân Không sắc Kim Cương (Sắc thân của hành giả nhờ quán tu như thế mà trở thành pháp Không sắc không có chất thịt nữa, gọi là thân Kim Cương), tâm thành diệu lạc bất biến (Tâm giác tri thì trở thành tâm diệu lạc bất biến của đệ tứ hỷ chí lạc), trong tất cả mọi thời trụ vào pháp thực tính, chứng đắc thân song vận (Trong mọi lúc mọi thời đều trụ ở trong “Thực tính” của “Pháp” như vậy – trụ trong thể tính chí lạc để cảm nhận đệ tứ hỷ này – gọi là chứng đắc thân Không Lạc song vận)”. (21-564)

Đạo Mật tông mà Tông Khách Ba khai thị trong đoạn văn này chính là đạo “tức thân thành Phật” mà Mật tông rất đỗi tự hào. Ý ở đây nói là hành giả Mật tông khi quán tưởng Bản tôn thiên thân thành tựu rồi, thì lại quán tưởng Bản tôn thiên thân cũng ôm lấy Minh Phi, thành hình tượng giao hợp hưởng thụ dâm lạc. Sau khi quán thành công, vẫn còn phải tu quán tưởng Minh điểm Trung mạch, Bảo bình khí và Chuyết hỏa, sau đó dùng công phu Bảo bình khí và Chuyết hỏa tiếp tục quán tưởng Bạch Bồ Đề tâm (bạch Minh điểm) ở Đỉnh luân hòa tan (nhỏ giọt) xuống đến đầu Kim Cương (giáng hạ đến quy đầu của dương vật) để dẫn sinh dâm lạc. Trong lúc hưởng thụ dâm lạc, thì vẫn bắt buộc phải ghìm nén không cho xuất tinh, để cơn dâm lạc được tăng cường và thụ hưởng thật lâu cực khoái tình dục, tuân theo lời dặn dò của Tông Khách Ba: “mỗi ngày tu tám thời”. Tu luyện cho đến khi thường xuyên được hưởng thụ dâm lạc mà mãi mãi không xuất tinh, tức là Bồ Đề tâm bất lậu, gọi là chứng đắc “Vô lậu”, thành tựu “quả Giải thoát”. Trong cảnh giới Vô lậu định” đó, quán tưởng sự dâm lạc này thường hằng bất biến, như thế là chứng biết được cái lạc đó là Đại Lạc bất biến. Việc quán tưởng thiên thân Bản tôn phụ mẫu và chính mình hợp nhau làm một để thụ hưởng dâm lạc trường cửu bất thoái như thế gọi là chứng đắc “Đại ấn tùy ái – đắc Diệu lạc bất biến”.

Nếu hành giả nào có thể dựa vào pháp tu song thân này mà tu tập tinh tấn, khiến cho sự dâm lạc này được triển chuyển tăng trưởng, vĩnh trụ (trụ lâu dài) ở cảnh giới thụ lạc như thế mà không xuất tinh, có thể khiến cho cơn cực khoái tình dục đạt đến cực lạc mà không gián đoạn, thì gọi là chứng được “Diệu lạc bất biến”, tức là “tâm thành diệu lạc bất biến, trong tất cả mọi thời trụ vào Pháp thực tính, chứng đắc thân song vận”, tức là đã thành “Phật đạo cứu cánh”. Chứng được cái sắc thân diệu lạc của song vận như thế, tức là đã chứng được Báo thân Phật mà Mật tông thường nói đến - Báo thân Phật của Mật tông đều là người nhận quả báo thụ lạc trong giao hợp song thân nam nữ - tức là đã thành “Phật cứu cánh”. Vì thế mới nói pháp môn tu hành của Mật tông là pháp “thành Phật ở Quả địa”.

 


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg