The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 3: Bát Nhã kiến trong Trung quán phái Ứng Thành của Mật tông (nửa dưới) -3

 Qua đây cũng chứng minh rằng các thày Trung Quán phái Ứng Thành như Tông Khách Ba đều lấy Đại Lạc bất biến trong dâm lạc nam nữ làm Thể trí tuệ, cho nên “Bát Nhã Phật pháp” mà họ chứng được không cần phải lấy Thức thứ tám làm Thể, vì thế mà phủ định luôn Tâm Thức thứ tám, không thừa nhận Tâm Thức thứ tám là thực có, còn cố ý xuyên lạc lời Phật trong các kinh Duy Thức của Tam chuyển pháp luân, cuồng ngôn nói rằng: “Phật nói có Thức thứ tám là thuyết phương tiện, không phải là nói có Tâm Thức thứ tám thật”. Những lời xuyên tạc lời Phật, kinh Phật như thế, trong các trước tác của Tông Khách Ba đâu đâu cũng có, đặc biệt nghiêm trọng nhất là ở cuốn “Nhập trung luận thiện Hiển Mật ý sơ”, đến mức độ không trang nào không có; sau đó là đến các cuốn “Biện liễu bất liễu nghĩa thiện thuyết tạng luận” và “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”, tuy không phải là trang nào cũng viết thế, nhưng rất hay nhắc đến trong sách.

Tông Khách Ba không chỉ coi dâm lạc của nam nữ song tu là Bản thể của Không tính, có lúc còn coi Minh điểm do quán tưởng mà thành là Không tính nói trong kinh Bát Nhã, gọi nó là Thực tế. Cho nên, Trung Quán phái Ứng Thành không cần phải có thức thứ bảy, thức thứ tám, vẫn có thể xây dựng nên học thuyết “Phật pháp” của họ: “Cái lý (ảo thân) thu nhập Quang Minh, như Ngũ thứ đệ luận nói: ‘(đem Bạch Minh điểm ở đỉnh đầu do quán tưởng mà thành) từ đầu cho đến chân, trực thẳng đến giữa tâm, hành giả nhập vào Thực tế, gọi là Chỉnh trì. Trước tiên nhiếp động, phi động, khiến cho nhập vào Quang Minh (của Minh điểm). Sau đó tự mình cũng như vậy, là thứ tự tùy hoại. Giống như khí trên mặt gương, tất cả đều tiêu tán biến mất. Thầy yoga như thế, nhiều lần nhập vào Thực Tế’…Cuốn luận này cũng nói rằng, vô phân biệt chuyển với ngũ sắc phong như thế là Không điểm (Minh điểm) của tâm bề ngoài. Lúc sinh thì sinh ra phong, hỏa, thủy… từ đó (Minh điểm), mà lúc thu thì cũng hoàn nhập về đó (Minh điểm). Khi thuận theo việc thanh tịnh này mà tu ba tầng Tát Đỏa xong, nhập vào đạo lý quang minh Tam ma địa (quang minh Minh điểm), vấn đề này giống với Thánh phái”. (21-555)

Tông Khách Ba xây dựng Minh điểm quán tưởng trở thành Thực tế của “Bát Nhã” Phật pháp như thế, nói rằng người thường nhập trụ ở cảnh giới Minh điểm tức là thày Yoga; thường xuyên trụ ở trọng cảnh giới Minh điểm, không phan duyên ngoại pháp, như thế tức là nhiều làn nhập vào Thực tế. Bởi vì phái Ứng Thành Mật tông tạo dựng Minh điểm là Bồ Đề Chân Tâm, cho nên không cần phải tu chứng Tâm Thức thứ tám A Lại Da mà Phật tuyên thuyết, mà coi việc chứng đắc Minh điểm tức là chứng đắc “A Lại Da thức”. Vì xây dựng Minh điểm là A Lại Da thức, cho nên họ mới nói rằng “A Lại Da thức mà Phật nói chỉ là pháp kiến tạo, là thuyết phương tiện, không phải là có một cái Tâm thật sự tên gọi là A Lại Da thức, vì thế thuyết Thức thứ tám chỉ là thuyết phương tiện”. Các thày Trung Quán phái Ứng Thành của pháp môn tu hành cao nhất trong Mật tông đều nói như vậy. Nếu như có người nào đó nói rằng: “Phật nói Thức thứ tám chính là Như Lai Tạng, là Thể của Bát Nhã”, có nội dung khác với Mật tông là họ cùng nhau nổi dậy mà công kích, thậm chí tiêu diệt kẻ đó (ví dụ như phái Giác Nãng bị họ vu cho là kẻ ngoại đạo phá hoại Phật pháp, nên họ đã xuyên tạc pháp nghĩa rồi tiêu diệt Giác Nãng). Pháp môn tu hành của Mật tông kiểu đó vì không thể chứng được Tâm Thức thứ tám nên đã cố ý xuyên tạc kinh Phật, ý Phật, tạo dựng riêng xúc thụ dâm lạc và Minh điểm làm Bồ Đề tâm nhằm thay thế Phật pháp vốn có, thì sao có thể gọi họ là hành giả Phật giáo được? Cho nên, Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông chỉ là tà kiến của Vô nhân luận, chỉ là ngoại đạo pháp lấy Minh điểm quán tưởng thay thế cho A Lại Da thức trong Phật pháp mà thôi.

Ông thày Trung Quán phái Ứng Thành Tông Khách Ba trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” của mình đã vọng ngôn nói rằng dâm lạc đệ tứ hỷ là Diệu lạc bất biến, nói láo rằng nhờ tu dâm lạc của Song thân pháp có thể đoạn được Ngã kiến và Ngã chấp, vì thế mà Mật tông đều tu hành bên ngoài đạo Phật Bồ Đề và đạo Giải Thoát mà Phật đã dạy, chủ trương dâm lạc của hợp tu song thân là pháp bất biến bất hoại, cho rằng “Diệu lạc” của đệ tứ hỷ dâm lạc là Thể của Bát Nhã, cho nên không cần phải lấy Như Lai Tạng mà Phật thuyết để làm Thể của Bát Nhã.

Tông Khách Ba dựa vào tà kiến của qtput còn cho rằng bằng việc tu hành dâm lạc này cũng có thể chứng được Phật quả, thành tựu trí tuệ Trung Quán:

“Diệu lạc bất biến là pháp bất biến, không phải là nói nhân duyên không thể sinh ra. Bên trên đã từng nhiều lần nói về Giới (“Giới” của Mật tông là chỉ chủng tử tinh dịch) xuất ra ngoại gọi là biến hoại, cho nên nếu ghìm Giới bất lậu (ghìm giữ chủng tử tinh dịch không rơi rớt ra ngoài) gọi là bất biến. Cái Lạc sinh ra từ đây không phải là nói thân ghìm giữ Giới sinh ra lạc thụ của thân từ “khả ý xúc” trong thân, cũng không phải tất cả lạc thụ ý thích duyệt tướng có duyên không gián đoạn bằng cái này, cũng không phải là Vô phân biệt định dựa vào lạc thụ làm nhân để phát sinh ra; mà là Diệu lạc thông đạt chân thực sinh ra (Diệu lạc chân thực sinh ra nhờ thông đạt mãi mãi không xuất tinh nên thường trụ ở trong Đại Lạc) nhờ lấy chính kiến vô tính thông đạt chư pháp làm nhân duyên gần, ghìm Giới bất lậu làm tăng thượng duyên (ghìm giữ chủng tử tinh dịch không xuất ra làm tăng thượng duyên). Cho nên, kinh này nói Lạc là vô đắc, không sắc là hữu đắc. Như “Đệ ngũ phẩm đại sớ” cũng nói: ‘Không là nói chư pháp vô sinh vô diệt, hiện ra từ Tâm; Trí là nói chứng được cái Lạc bất biến đó. Ở đây nói thông đạt không sắc ở Chân thực nghĩa sinh diệt tính không, cái tính vô trụ là Lạc bất biến…Chấp nhận Ngã chấp là gốc rễ của sinh tử là điểm chung của đại tiểu thừa Hiển và Mật, cho nên chấp thuận rằng chứng trí tuệ Vô ngã có thể đoạn được gốc rễ trói buộc sinh tử cũng rõ rệt nhất. Vì thế mà “Đệ tứ phẩm đại sớ” nói: ‘Tiếp đến nên ức niệm ba loại căn bản, là phát đại Bồ Đề tâm, thanh tịnh ý lạc, đoạn trừ Ngã, Ngã sở chấp’. Ở đây nói về đạo đoạn Ngã chấp, lấy chứng ngộ trí tuệ Vô ngã làm căn bản của đạo. Lại nói các thày Trung Quán tu trí tuệ vô nhị bất biến, cũng là tu từ pháp môn nhị Vô ngã’”. (21-565~566)

Tông Khách Ba cho rằng trong cảnh giới dâm lạc của hợp tu song thân, nếu nam hành giả Mật tông có thể thường trụ mãi trong cực khoái tình dục của lạc xúc đó mà không xuất lậu Giới trong thân (Mật tông dẫn dụng chữ “Giới” là danh từ của Duy Thức học, nhưng đối với Mật tông, “Giới” ở chỗ này là chỉ tinh dịch của người nam, ở đây Giới nghĩa là chủng tử), tức là có thể không xuất tiết tinh dịch, như thế có thể duy trì sự cương cứng mà trụ mãi ở trong xúc lạc đệ tứ hỷ dâm dục, thì Tông Khách Ba cho rằng cái Lạc này chính là Lạc bất biến, cho rằng loại lạc thụ này không thuộc về cái lạc vô thường biến dị, cho nên gọi là Lạc bất biến. Ông ta còn cho rằng: Cứ giữ mãi kéo dài trong cảnh giới cảm giác dâm lạc mà không xuất tinh như thế, rồi quan sát thiên thân do mình quán tưởng thành không có thô sắc vật chất cho nên nó có tính Không, đồng thời quan sát trong cảnh giới Sắc Không này có thể sinh ra “lạc thụ bất biến” của dâm xúc, mà cái Tâm giác tri trong cơn lạc thụ này vô trụ - tức là không tham trước tất thảy các pháp, như thế tức là có thể đoạn trừ được Ngã kiến và Ngã chấp.

Nói như vậy thực là giảo biện, cả vú lấp miệng em. Bởi kẻ thụ lạc như thế, nếu như lìa được sắc thân thô nặng vô thường ở Dục giới, thì làm gì còn cái lạc thụ của dâm dục để nói nữa. Nếu như lìa được sắc thân thô nặng vô thường ở Dục giới, thì không thể nào tu thành “thiên thân, Trung mạch Minh điểm, Bảo bình khí” nữa rồi. Chúng sinh hữu tình ở Dục giới nếu lìa được sắc thân thô nặng vô thường ở Dục giới, còn không có Tâm giác tri có thể hiện hành, thì nói gì đến việc chứng đắc Trung mạch Minh điểm, Bảo bình khí trong thân và thiên thân quán tưởng ra? Mà nói có “Diệu lạc không sắc”? mà nói nó “thường” bất biến dị? Nói năng đảo lộn đến thế là cùng.

Hành giả Mật tông tu như thế, tâm muốn thường trụ trong Diệu lạc dâm xúc, cứ phải ôm mãi nữ nhân trong lòng để thụ hưởng dâm lạc, chẳng lẽ không mệt mỏi hay sao? Như thế sao có thể nói là cái Lạc giải thoát được? Họ chấp trước vào sự thường còn không lui của lạc xúc như thế, chính là chấp trước vào pháp lạc xúc của Ngũ trần, bị “Dục giới ái” trói buộc, sao có thể nói là vô chấp? Còn chấp bám vào xúc trần bên ngoài Tâm giác tri thì sao có thể phủ định hoặc diệt trừ “bản thân Tâm giác tri” mà đoạn Ngã kiến và Ngã chấp? Họ rơi vào “Ngã kiến” như thế mà còn không tự biết, thì sao lại nói có thể đoạn Ngã kiến? Ngã kiến còn chưa đoạn, sao có thể nói dựa vào dâm lạc để đoạn Ngã chấp? Tông Khách Ba nói năng điên đảo như vậy, là kẻ chấp bám chặt vào Ngã kiến và Ngã chấp không rời, sao có thể gọi là người đại tu hành được? mà các tín chúng của Mật tông lại có thể phong ông ta làm bậc Chí tôn được?

Trung Quán phái Ứng Thành phủ định Thức thứ tám, coi “tất thảy pháp Không, Tâm giác tri không có hình sắc thô nặng ở nhân gian nên cũng Không” là Không tính, khiến cho các Phật tử ngộ nhận Ý thức là Tâm Chân Thực, vì thế mà khiến cho lý luận của pháp tu song thân vô thượng Yoga được thành lập – Tâm giác tri tương ứng với dâm xúc, thường hằng bất hoại – vì thế mà các thày Trung Quán phái Ứng Thành không cần lấy Thức thứ tám làm Thể của Bát Nhã. Vì thế mà Mật tông cho rằng họ đã giải quyết được khốn cảnh “phủ định Thức thứ tám là rơi vào đoạn diệt không”, liền quảng truyền Tham pháp hợp tu song thân, phá hoại Phật giáo vốn dĩ thanh tịnh. Đó chính là đại sai lầm của Trung Quán phái Ứng Thành. Thế nhưng, tất cả mọi người đều có thể hiện kiến, xác nhận rằng Tâm giác tri dễ sinh dễ đoạn, vì đêm đêm ngủ say không mơ chắc chắc sẽ tạm đứt đoạn, trong các trạng thái hôn mê, chính tử, vô tưởng định và diệt tận định chắc chắn sẽ bị đoạn diệt. Cho nên, kẻ tạo dựng nên thuyết Tâm giác tri là pháp thường hằng bất hoại mắc vô số sai lầm, mà thuyết này đã bị Phật phá hết trong kinh Tứ A Hàm, nói đó là thường kiến ngoại đạo kiến. Vì thế, việc Tông Khách Ba xây dựng Tâm giác tri là Tâm Không tính bất hoại của pháp giới, tạo dựng Minh điểm là A Lại Da thức, kiến lập đệ tứ hỷ dâm lạc là Thể của Bát Nhã, tất thảy đều trái ngược với Thánh giáo mà Phật nói, cũng trái ngược với Thế tục đế mà mọi người đều biết, rõ ràng không phải là chính lý.

Ví dụ, Tông Khách Ba nói về Không tính thế này: “…Về Sinh khởi thứ đệ vị, khi dần dần thu tình khí nhập vào Không tính, diệt trừ tất cả cảnh giới thô như hiển sắc, hiểu rõ an trú duy tâm; sau từ Định khởi, tuy không tác ý, cũng có thể hiển hiện thiên thân và hiện thanh tịnh vô ngại”. (21-549)

Lời khai thị của Tông Khách Ba trong đoạn văn này đã chứng tỏ rõ về tri kiến của Tông Khách Ba: Đem tất cả các pháp quán tưởng mà thành – bất luận là thiên thân hay Minh điểm do quán tưởng mà thành – sau cùng đều quán chúng hòa tan và nhập vào Nguyệt luân, lại hòa tan Nguyệt luân và nhập vào trong Tâm giác tri, như thế gọi là “thu tình khí nhập vào Không tính”; sau đó duy trừ bản thân Tâm giác tri, nó không duyên bám tất cả các pháp có hình ảnh (hiển sắc), một mình an trú bất động, như thế gọi là “an trú cảnh giới duy tâm”. Thế nhưng, đó đều là cảnh giới của Tâm ý thức, không phải là chính nghĩa “Tam giới duy Tâm” mà Phật nói trong kinh Đại thừa, vì đó là lấy Tâm ý thức giác tri làm Tâm thường bất hoại, bởi “Tam giới duy Tâm” của Phật là lấy Thức thứ tám Như Lai Tạng làm Tâm. Cho nên mới nói, cái “Trung Quán kiến phái Ứng Thành” chính là “thường kiến ngoại đạo kiến”, thế nhưng Ấn Thuận đời nay lại kế thừa Tâm giác tri của “thường kiến ngoại đạo kiến” phái Ứng Thành mà Tông Khách Ba đã hoằng truyền, đã khiến cho đông đảo người học Hiển Mật đều nhận định đó là Chân Tâm, khó có thể thay đổi được tà kiến này. Bởi thế mới nói thời nay là thời mạt pháp vậy!

Câu “tất thảy pháp Không” mà Phật nói trong chư kinh Tam thừa đều có một đại tiền đề - đó là dựa vào Thức thứ tám mà nói tất thảy pháp duyên khởi tính không. Trong các kinh Tứ A Hàm mà pháp Nhị thừa coi là chính yếu thì cũng phải dựa vào “Bản Tế, Thực tế, Chân Như, Thức, Chân Ngã” của Niết Bàn để nói tất thảy các pháp Uẩn Xứ Giới duyên khởi tính không. Trong chư kinh Bát Nhã đại tiểu phẩm cũng phải dựa vào “Phi Tâm Tâm, Vô Tâm Tướng Tâm, Bất Niệm Tâm, Bất Trụ Tâm” để nói tất thảy pháp duyên khởi tính không. Trong các kinh Duy Thức của Tam chuyển pháp luân thì phải dựa vào A Lại Da thức để nói về đạo thành Phật, để nói Tâm ý thức giác tri là Tâm dễ khởi dễ đoạn y tha khởi tính, cho nên mới nói Ý thức là chuyển thức, không phải là Tâm Chân Thực; cũng nói về Ý căn Mạt Na thức phải dựa vào A Lại Da thức mà sinh khởi thì mới có Biến kế chấp tính – có thể biến duyên khắp tất cả mọi pháp mà không bỏ sót. Vì thế, “Không tính” mà Phật nói chính là Thức thứ tám, chứ không phải là coi sự đoạn diệt không của tất thảy pháp không là Không tính. Tông Khách Ba và Ấn Thuận vì không biết nên đã giảo biện rằng “Phật thuyết Thức thứ tám là thuyết phương tiện”, thật đúng là những kẻ phá pháp.

Vì sao nói rằng Thức thứ tám không phải là thuyết phương tiện như Tông Khách Ba và Ấn Thuận nhận định? Vì trong chư kinh từ Sơ chuyển đến Tam chuyển pháp luân, Phật đều nói A Lại Da thức là pháp có thể sinh ra Ý thức, Mạt Na thức, có thể sinh Thập bát giới, vì nó là pháp thường trụ bất hoại. Nay Tông Khách Ba lại cho rằng Ý thức mà đêm đêm đoạn diệt đó có thể là pháp thường trụ bất hoại, thì A Lại Da thức có thể sinh ra Ý thức đó sao có thể nói là pháp thuyết phương tiện được? Sao có thể nói A Lại Da thức không phải là Thực pháp? Vì sao vậy? Vì Ý thức được sinh ra lại có thể là pháp Chân Thực, mà A Lại Da thức có thể sinh ra Ý thức lại là pháp giả danh bày đặt hư vọng ư? Trong pháp thế gian và xuất thế gian, liệu có cái lý như thế hay không? Thế mà Tông Khách Ba lại ngang nhiên đưa ra những lời lẽ điên đảo như vậy, rồi các thày trò Hoàng giáo Mật tông, và những người như Đạt Lai Lạt Ma, Ấn Thuận được truyền thừa đến nay lại không có trí tuệ để phân biệt rõ đúng sai? Thiên hạ sao lại có thứ tôn giáo quái đản như vậy, dám đem Trung Quán phái Ứng Thành hoang đường cực độ đó phong làm Trung Quán chí cao vô thượng? Như thế sao không đau lòng cho được?

Trong các kinh, Phật thường nói: Kẻ vọng thuyết tất thảy pháp không, tất đọa địa ngục. Có thể lấy lời Phật trong “Lăng Nghiêm Kinh” quyển tám thuộc hệ kinh điển Mật tông làm chứng: “Đại vương Lưu Ly, tỳ kheo Thiện Tinh: Lưu Ly thì tru diệt chủng tộc Cù Đàm, Thiện Tinh thì vọng thuyết tất thảy pháp không, thân rơi vào địa ngục A Tỳ… Nếu trong tâm chìm đắm đó, có phỉ báng Đại thừa, hủy Phật phá giới, thuyết pháp cuồng vọng, hư tham tín thí, lạm nhận sự cung kính, phạm tội ngũ nghịch thập trọng, càng sinh xuống địa ngục A Tỳ mười phương”. (“Đại Chính Tạng” 19-143 thượng)

Như vậy, trong “Lăng Nghiêm Kinh”, chỗ nào cũng nói Âm (Uẩn) Xứ Giới hư vọng không thật, còn tính kiến văn giác tri đều có nhân là các nghiệp chủng tham ái đời quá khứ, từ trong Như Lai Tạng sinh ra; nó dựa vào tính bất sinh bất diệt của Như Lai Tạng mà đêm đêm đoạn diệt, sáng sáng xuất hiện, đời đời đoạn diệt, kiếp kiếp tái sinh, cho nên mới nói các tính như kiến văn giác tri “phi sinh diệt, phi bất sinh diệt”, vì “vốn có tính Như Lai Tạng Chân Như”, vì dựa vào Như Lai Tạng mà có thể “sau khi đoạn diệt lại tiếp tục hiện tiền”. Nếu như lìa pháp Như Lai Tạng, thuần chỉ nói về tính kiến văn giác tri thì nó chỉ là pháp sinh diệt. Còn nếu dựa vào sự thường trụ của Như Lai Tạng, có thể luôn khiến cho tính kiến văn giác tri sau khi đoạn diệt lại tiếp tục tái hiện, thì các tính như kiến văn giác tri phải nói là phi sinh diệt tính, bởi vì Như Lai Tạng thường trụ bất diệt nên tính kiến văn giác tri cũng thường trụ bất diệt. Cho nên, không thể đứng ngoài Như Lai Tạng mà nói tính kiến văn giác tri thường trụ bất diệt được, mà phải nói các tính Âm Giới Nhập (Ngũ âm, Thập nhị nhập, Thập bát giới) đều là một phần thể tính hàm chứa trong Như Lai Tạng – thể tính của Thất chuyển thức này đều do Như Lai Tạng nắm giữ, cũng là một phần thể tính thuộc về Như Lai Tạng. Vì có chính lý này, cho nên “Kinh Lăng Nghiêm” muốn người học buộc phải tìm kiếm Như Lai Tạng – tri kiến vô kiến, tức Niết Bàn vô lậu chân tịnh – buộc phải dựa vào kiến văn giác tri để tìm kiếm Như Lai Tạng lìa kiến văn giác tri trong tất cả mọi thời. Nếu như có người nào quả thực có thể hiểu được và đích thân chứng thực “cái Tâm xưa nay vô kiến”, tức là tìm thấy Niết Bàn vô lậu chân tịnh, tức là “Bản lai Tự tính Thanh tịnh Niết Bàn”.

Thế nhưng, những người học Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông nghe Phật nói xong lại không hiểu ý chỉ của Phật, còn đem “Kinh Bát Nhã” ra để ngắt câu lấy nghĩa, lấp liếm những lời Phật nói về Như Lai Tạng “Phi Tâm Tâm, Vô Tâm Tướng Tâm, Bất Niệm Tâm…” rồi nói Uẩn Xứ Giới tất thảy pháp không. Đã là “không” rồi, thì cái sự “không vô” này thường tồn, cho nên tính “không vô” là bất sinh bất diệt, cho nên họ coi tất thảy pháp không là chính pháp mà Phật nói. Họ rơi vào đoạn diệt không như thế mà lại vu cho những người đã chứng được Như Lai Tạng chân nghĩa của Phật là đồng với tư tưởng Phạm Ngã, Thần Ngã của ngoại đạo, thậm chí còn dùng cả thủ đoạn chính trị để tiêu diệt các tông phái khác. Đó chính là tà kiến mà Hoàng giáo Mật tông rêu rao là cứu cánh nhất, là Trung Quán phái Ứng Thành vượt trên tất cả các tông phái khác.

Các thày Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông - như Nguyệt Xứng, Trí Quân thời Thiên Trúc cổ, như A Để Hạp, Tông Khách Ba, Khắc Chủ Kiệt, Thổ Quan của Tây Tạng và Đạt Lai Lạt Ma, Ấn Thuận thời nay – đều là những kẻ ra sức phá hoại pháp Thức thứ tám Như Lai Tạng, vọng ngôn nói đó là thuyết phương tiện, vu rằng Phật chưa từng nói. Sau khi phủ định Thức thứ tám Như Lai Tạng xong, họ còn vọng ngôn nói tất thảy pháp không tức là Bát Nhã. Tông Khách Ba và Đạt Lai Lạt Ma các đời thậm chí vì thế còn nói chư kinh Duy Thức trong Tam chuyển pháp luân là thuyết bất liễu nghĩa (chi tiết xem các cuốn sách “Biện liễu bất liễu nghĩa thiện thuyết tạng luận”, “Bồ Đề đạo thứ đệ lược luận”…của Tông Khách Ba). Còn pháp sư Ấn Thuận trong các trước tác của mình, đâu đâu cũng tuyên thị như vậy, hoàn toàn lấy Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông làm tư tưởng nòng cốt của mình, vì thế mới nói Ấn Thuận bề ngoài là Hiển giáo, kỳ thực bản chất lại là Mật tông, vì pháp của ông ta toàn là tà kiến Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông. Nếu như loại bỏ “Trung Quán kiến phái Ứng Thành của Mật tông” ra thì Ấn Thuận không còn bất kỳ tư tưởng nào để nói nữa.

Tất cả các thầy Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông đều bám vào tà kiến đoạn kiến lưu truyền cho đến nay của những người như Nguyệt Xứng, Tịch Thiên thời Thiên Trúc xưa, rơi vào trong tất thảy pháp không, không tự lập nổi tông riêng mà phá tất cả các pháp của các tông phái khác, cho rằng pháp của mình là pháp cứu cánh nhất trong Phật giáo. Qua những lời dưới đây của A Để Hạp, có thể biết được ý của ông ta: “Nguyệt Xứng thì chủ trương: Chân lý lìa ngôn ngữ, tuy có dụ để ví, nhưng không có nhân để lập, cho nên tự tông không thiết lập tỷ lượng đặc định, chỉ là khéo léo quyền biến mượn dùng tông phái đối địch làm nhân để luận phá bên địch, khiến họ ngộ hiểu lập trường bên tông mình”. (6-52)

Thế nhưng, các thày Trung Quán phái Ứng Thành đều đọa vào trong tà kiến của tất thảy pháp không, cùng một giuộc với những người theo thuyết đoạn kiến của ngoại đạo, song họ đều không thể tự biết mình đang rơi vào trong tà kiến, lại còn rêu rao tông mình là pháp cứu cánh nhất. Khi luận nghĩa với các tông khác, đều lấy pháp nghĩa của các tông khác đem ra nói và phá bỏ. Thậm chí, đối với pháp Thức thứ tám cứu cánh liễu nghĩa thực sự, họ cũng coi đó là pháp ngoại đạo, nhất loạt phá hết. Những hành vi như thế, chỉ là mượn dùng danh từ của Phật pháp, dùng ngoại đạo kiến để phá Phật pháp chân chính. Điều này cũng có nguyên nhân từ việc trong Hiển giáo tạm thời không có bậc Đại thiện tri thức chứng được Đạo chủng trí thực sự nên mới khiến cho tà kiến của Trung Quán phái Ứng Thành mới đầu độc được những người tu hành của Phật giáo hơn ngàn năm nay. Nay đã có người biết được việc này, thì nên phân tích những chỗ tà trái, hoang đường trong cái lý của họ, khiến đại chúng đều hiểu rõ chân tướng, để tránh cho những người học đời sau không còn bị đọa vào trong “thuyết thỏ không sừng” tất thảy pháp không của Trung Quán phái Ứng Thành nữa.

Pháp sư Ấn Thuận đời nay thì càng ngu si hơn, đã không biết gì về sự tà trái, hoang đường của Trung Quán phái Ứng Thành, ngược lại với thân phận cao quý của tăng bảo Hiển giáo, tự mình còn kế thừa các loại tà kiến Trung Quán phái Ứng Thành phá pháp nghiêm trọng nhất trong số những người phá hoại Phật pháp của ngoại đạo Mật tông. Ông ta còn vận dụng tà kiến Trung Quán phái Ứng Thành, đem ý Phật trong chư kinh Bát Nhã ra xuyên tạc, bóp méo trong “Diệu Vân Tập” và các cuốn sách khác của mình, vu rằng Bát Nhã là “Tính Không duy danh” – “chỉ nói tất thảy pháp không, không có pháp tính chân thực, những gì Bát Nhã nói duy chỉ là các danh tướng”. Hành động của ông ta đã khiến cho Bát Nhã trở thành hý luận huyền học “duy danh” mà “không có pháp tính chân thực”, trở thành pháp hư tướng, biến thành nghĩa học kinh pháp không nói gì về Thực tướng của Pháp giới. Cho nên mới nói các hành vi của pháp sư Ấn Thuận, về bề ngoài thì như một pháp sư Hiển giáo tựa đang hoằng dương Phật pháp, kỳ thực lại đem nghĩa lý Thực tướng của Phật pháp ra chặt đứt từ gốc rễ, thay thế bằng thuyết Vô nhân của Trung Quán phái Ứng Thành. Bởi thế không thể nói Ấn Thuận là người của Hiển giáo được, vì tư tưởng nòng cốt của ông ta hoàn toàn là pháp của Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông. Với vẻ bề ngoài là Hiển giáo, lại mượn pháp Mật giáo thay thế cho chính pháp Hiển giáo như thế, nhằm tiêu diệt chính pháp Hiển giáo trong sự bất tri bất giác của đông đảo người học Phật, thủ đoạn cao siêu của ông ta thật khó để người ta phát giác. Nếu như không có ai đem nghĩa lý chân thực ra biện chính để đông đảo người học được biết, thì chính pháp liễu nghĩa của Phật giáo không lâu sau sẽ bị tư tưởng Mật tông của Ấn Thuận quảng truyền và tiêu diệt, từ đó sẽ vĩnh viễn biến mất ở nhân gian.

Các thày Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông đều là những người đứng ngoài Như Lai Tạng mà vọng thuyết tất thảy pháp không, tội lỗi của họ còn hơn cả những người ngộ sai như “pháp sư Duy Giác, pháp sư Thánh Nghiêm ngộ nhận tính kiến văn giác tri là Tâm thường trụ bất hoại”, bởi hành vi phủ định Thức thứ tám Như Lai Tạng là trực tiếp chặt đứt gốc rễ của Phật pháp Tam thừa. Vì thế mà Phật nói những người vọng thuyết tất thảy pháp không sau khi đọa vào địa ngục chịu khổ báo trường kiếp, còn phải chuyển sinh sang các địa ngục nơi khác, tiếp tục chịu quả báo cực nặng thuần khổ trường kiếp (chi tiết xem lời Phật trong “Đại thừa Phương quảng Tổng trì kinh”). Đã biết tội này cực kỳ nghiêm trọng rồi, thì tất cả mọi người học Phật nhất định không được bắt chước những người như Đạt Lai Lạt Ma và Ấn Thuận “phủ định Thức thứ tám mà nói tất thảy pháp không”, để tránh phải chịu quả báo cực nặng thuần khổ trường kiếp trong các đời sau. Cho nên, nếu như dựa vào Thức thứ tám Như Lai Tạng mà nói Uẩn Xứ Giới, Tâm giác tri tất thảy pháp không thì mới là đúng. Còn nếu người nào lìa Thức thứ tám, phủ định Thức thứ tám mà nói Uẩn Xứ Giới, Tâm giác tri tất thảy pháp không là sai lầm lớn. Tất cả mọi người học đều nên khắc ghi những lời nói này đấy!

Các thày Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông thì phủ định Thức thứ tám Như Lai Tạng, còn pháp sư Ấn Thuận càng nhấn mạnh rằng “pháp Như Lai Tạng là sự sống lại của tư tưởng Phạm Ngã, Thần Ngã của ngoại đạo”, vu rằng Phật nói Thức thứ tám Như Lai Tạng là đồng với Tâm thức thứ sáu của Phạm Ngã, Thần Ngã ngoại đạo, khiến cho người ta không còn tin rằng có Như Lai Tạng để chứng, như thế thì chính pháp thâm diệu của Phật giáo sẽ theo đó mà vĩnh diệt, thất truyền. Kiến giải của ông ta đã thiên tà như thế rồi, lại còn phá hoại nghiêm trọng Phật pháp Tam thừa, khiến cho Phật pháp Tam thừa đều đọa vào trong bản chất đoạn diệt, trở thành “thuyết thỏ không sừng, thuyết vô nguyên nhân” của cái gọi là “Tính Không duy danh”, trở thành một môn triết học huyền học hý luận, tức là kẻ phá hoại chính pháp của Phật giáo. Vì thế, tất cả mọi người học Phật đều nên cùng nhau vứt bỏ thứ tà kiến này, không cho thứ tà kiến phá hoại chính pháp của Phật giáo này tiếp tục được lưu truyền, đầu độc những người học Phật pháp ngày nay và muôn đời sau.

 

 


[1] Chú thích của người dịch: “Cộng hứa” là một thuật ngữ trong Nhân Minh học. Trong Nhân Minh luận, nếu như hai bên người lập luận (lập giả) và người chất vấn (địch giả) cùng chấp nhận sự việc mà bên lập luận nêu ra là đúng thực tế thì gọi là “cộng hứa”, còn gọi là “lập địch cộng hứa pháp”, “đồng hứa”, “câu hứa”. Ngược lại, nếu như hai bên lập và địch đều không chấp nhận nhau, thì gọi là “bất cộng hứa”.

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 31483


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg