Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |
Tiết 8: Tà kiến của Mật tông dẫn đến pháp nghĩa Phật giáo chia lìa tan vỡ |
Tiết 8: Tà kiến của Mật tông dẫn đến pháp nghĩa Phật giáo chia lìa tan vỡ Mật tông có đại tà kiến khiến cho Phật pháp chia lìa tan vỡ: đó là “Trung Quán Duy Thức chia hai, Trung Quán (ngộ nhận Ý thức lìa hai bên là Thực Tướng Trung Quán) Bát Nhã (ngộ nhận tất thảy pháp không là Bát Nhã) chia hai, Hiển Mật chia hai, Như Lai Tạng và A Lại Da chia hai”. Các thày Mật tông từ cổ chí kim (đặc biệt chỉ các thày Trung Quán phái Ứng Thành như Ấn Thuận, Đạt Lai Lạt Ma, Tông Khách Ba…) xưa nay chưa từng biết gì về đạo lý “Trung Quán Bát Nhã Duy Thức không hai, Hiển Mật không hai”, lại không thể chứng được Thức thứ tám nói trong các kinh Duy Thức – A Lại Da thức – Như Lai Tạng, cho nên họ đã bài xích tông nghĩa Duy Thức, vu cho tông nghĩa Duy Thức là pháp bất Liễu nghĩa, vu cho lời Phật cứu cánh Liễu nghĩa trong các kinh Duy Thức của Tam chuyển pháp luân là thuyết phương tiện, là pháp bất Liễu nghĩa. Tất thảy Phật đệ tử muốn hiểu về Bát Nhã, muốn thực sự vào Phật môn, ngay từ đầu nên lấy Thiền tông làm chỗ sở quy, để cầu ngộ nhập (Mật tông cũng tự tôn sùng Thiền tông, nhưng cái Ngộ của Thiền tông thực sự không phải là Minh thể của Mật tông), sau đó tiến tu Biệt tướng trí Bát Nhã nói trong các kinh Bát Nhã, cuối cùng lại tiến tu Nhất thiết chủng trí nói trong các kinh Duy Thức. Tiến tu theo thứ tự như thế mới là tu chứng dần thành Phật đạo, đừng có theo các thày Mật tông mà phỉ báng Duy Thức Nhất thiết chủng trí để tránh đúc thành đại ác nghiệp phỉ báng pháp cứu cánh, vì việc học Chủng trí Duy Thức chính là Nhất thiết chủng trí mà các Bồ Tát sau khi chứng ngộ phải học, cũng tức là Tăng thượng huệ học mà Bồ Tát chư địa phải tu. Ví dụ trong cuốn “Niết Bàn đạo Đại thủ ấn Du già pháp yếu” của Mật tông nói rằng: “Pháp quán một nhiều: Thử hỏi rằng: ‘Tâm là một pháp ư? Hay là nhiều pháp đây?’ Nếu nói Tâm là một pháp, thì sao lại có thể sinh ra các loại pháp? Nếu nói là nhiều pháp, thì các loại pháp ấy đều cùng một thể tính chân không này. Từ quan sát đó, hai bên một nhiều đều không thể an trú tốt được. Phải biết rằng hai bên (lưỡng biên) đều là pháp vô sở trụ, tức là Đại thủ ấn, tức là một Tâm này, hơn nữa là một đại Chân Tâm không có bất kỳ nơi chốn tuyệt đối có thể trụ nào mà lại có thể trụ. Hành nhân du già (yoga) cần biết rõ như thế thì mới có thể thực sự nhập vào Tam ma địa. Trong cảnh giới đó, tất sẽ đắc thành tựu viên mã “Diệu quan sát huệ căn” giác chiếu linh minh, chứng nhập chính trí thanh tịnh vô thượng. Bên ngoài nó không có bất kỳ tướng nào khác, cho nên cái Đại thủ ấn Câu sinh trí chính là Thực Tướng duy nhất lìa tất thảy các tướng”. (122-638~639) Nói như vậy tức là lấy Tâm giác tri để quán tưởng, quan sát Tâm giác tri tự tâm mình là nhiều hay là một? Sau đó Tâm giác tri sinh khởi một tác ý “không trụ hai bên”, gọi là đã lìa hai bên, không trụ ở lưỡng biên. Thế nhưng, lìa hai bên, không trụ ở hai bên mà Phật nói là Tâm giác tri chứng được một cái Tâm “Thức thứ tám luôn luôn lìa hai bên, luôn luôn không trụ hai bên” mà đồng thời vận hành song song với Tâm giác tri, vì thế mà Tâm giác tri bèn nương dựa vào thể tính thanh tịnh xưa nay không trụ hai bên của Thức thứ tám này để an trú, là trụ bằng trí tuệ của thể tính lìa hai bên của Thức thứ tám; chứ không phải là an trụ bằng tác ý “lìa hai bên” của bản thân Tâm giác tri như cách hiểu của thày trò Mật tông, vì Tâm giác tri mãi mãi đều rơi vào trong hai bên, vì nó luôn luôn không lìa Lục trần cảnh. Mật tông nói về đạo Giải Thoát bằng kiến giải trong “Niết Bàn đạo Đại thủ ấn Du già pháp yếu” như thế, tức là coi việc Tâm giác tri khởi tác ý lìa khỏi hai bên là Trung Quán kiến. Sau đó lại thành lập riêng Thực Tướng quan của Bát Nhã như sau: “Hiện tiền về Thực Tướng: Từ kết quả tu tập chính quan du già vô sinh ở trên, phàm tất thảy tà kiến hý luận ngộ nhận ảo có là thực, tức là được giải trừ căn bản, mà hiểu rõ tất thảy mọi sự ảo có vốn đồng diễn với người ảo thuật. Được như thế, một đại Thực tướng tức thì có thể hiện tiền. Như kệ nói rằng: Trước ta sau ta và thập phương, tùy thấy duy nhất đại Thực tướng, theo lời thượng sư dạy ảo thấy vong (mất, không có), thì sao lại cầu ở chỗ người?” (122-639) Nói về Thực tướng như thế tuyệt đối không phải Thực tướng. Trong các kinh Bát Nhã Phật nói về Thực tướng là nói về Tâm Thức thứ tám mà chúng sinh vốn có, nói Thức thứ tám này là đầu nguồn của tất thảy pháp giới, cho nên, Chân Thực tướng của tất thảy chúng sinh vạn pháp trong pháp giới mười phương gọi là Thực tướng. Các thày Mật tông thì lại coi tất thảy pháp Duyên khởi tính không – đều vô thường tính không – là Thực tướng nói trong các kinh Bát Nhã. Thế nhưng, thuyết pháp như vậy, gọi là hư vọng pháp, vì tất thảy pháp Duyên khởi tính không đều là pháp có sinh có diệt, trong đó không hề có một Tự thể nào chân thực bất hoại, thì nó không phải là pháp Thực tướng, vì không có thể chân thường bất hoại của Thức thứ tám, vì tất thảy pháp đều vô thường không, cho nên gọi là pháp hư vọng. Mật tông từ tà kiến này, quán hành về tâm tính Trung đạo của Thức thứ tám (Trung Quán), bóc lìa từ trong Thức thứ tám, khiến cho “quán hành tâm tính Trung đạo” không liên quan gì đến Thức thứ tám, trở thành một loại Huyền học. Sau đó, lại đem pháp nghĩa Thực tướng Không tính Thức thứ tám nói trong kinh Bát Nhã bóc lìa ra khỏi Thức thứ tám, biến thành một loại Huyền học khác “Không tính không liên quan đến Thức thứ tám”; rồi lại tách Trung Quán và Thực tướng ra, khiến nó trở thành hai loại Huyền học. Phật pháp đã bị các học giả Mật tông phân cắt và trở nên chia lìa, vỡ nát như thế đó. Thế nhưng, dựa vào quan sát Thực Tế, Trung Quán tức là sự quán hành tính Trung đạo của Thức thứ tám, không thể đứng ngoài tính Trung đạo của Thức thứ tám để có thể quán hành bất kỳ tính Trung đạo nào. Tất thảy mọi sự quán hành tính Trung đạo đều phải trực tiếp hoặc gián tiếp quán từ Tâm Thức thứ tám thì mới có, chứ không thể quán hành Trung đạo bên ngoài Thức thứ tám được. Thực tướng chính là quán sát tính chân thực của Thức thứ tám, hiện tiền quan sát Thức thứ tám làm thế nào có thể sinh ra Ngũ uẩn, Thập bát giới của chúng ta, hiện quan Thức thứ tám làm thế nào thu giữ tất cả mọi chủng tử nghiệp hành mà chúng ta đã tạo ra ở đời này và từ đời trước, hiện quan Thức thứ tám làm thế nào có thể khiến chúng sinh hữu tình chứng được quả Giải thoát, hiện tiền quan sát Thức thứ tám làm thế nào có thể khiến chúng sinh hữu tình dựa vào thể tính thanh tịnh của nó để đoạn trừ chủng tử tập khí, hiện quan tất cả các Giới (sai biệt công năng) của Thức thứ tám làm thế nào có thể khiến hành giả đoạn tận tất thảy vô thủy Vô minh tùy miên để thành Phật, như thế mới gọi là chứng được Trung đạo quán của Thực tướng. Trung Quán và Thực tướng như thế đều dựa vào tính Thức thứ tám mà có. Phật cũng dựa vào tự tính Trung đạo như thế của Tâm Thức thứ tám để khai thị về Trung Quán kiến và Thực tướng. Các Phật tử nên quan sát tính Trung đạo của Thức thứ tám bằng tính phân biệt của Tâm giác tri ý thức trong tứ uy nghi, mới là chính tu hành trong Bát Nhã. Các thày Mật tông không biết, cũng không thấy được đạo lý này, nói Trung Quán là “Tâm giác tri không duyên bám hai bên”, nói Thực tướng là “tất thảy pháp Duyên khởi tính không”, phân cắt Trung Quán và Thực tướng thành hai pháp, khiến cho Phật pháp “Trung Quán, Thực tướng” không hai không khác phải duyên bám vào cùng một Tâm Thức thứ tám mà hiển hiện, mà tồn tại bị chia lìa, vỡ nát. Đó là đại sai lầm của các thày Trung Quán Mật tông. Mật tông lại chia Chân Như và Duy Thức từ một thành hai, đem Phật pháp vốn dĩ là một pháp nhưng nói tách phương tiện cho chúng sinh nghe tiến hành chia cắt thật thành hai pháp khác nhau: “Cái duyên khởi Chân Như là bù đắp cho sự đơn lẻ của Duy Thức, để nói rõ khởi nguồn cơ bản Tâm Vật không hai. Tất thảy Sắc pháp, Tâm pháp vốn trú trong bản thể Chân Như và không có sự phân chia giữa Tâm và Vật. Tâm và Vật ngay từ đầu sớm đã viên dung hợp nhất, không phải là một cũng không phải là khác, không bẩn không sạch, không sinh không diệt. Do chúng sinh Nhất niệm Vô minh vọng động, sinh ra vọng động, đó tức là Vô minh duyên hành. Mà Hành và Thức tựa như chia hai, Hành tức không phải đạo hành, Thức cũng không phải chính kiến, cho nên có Hành duyên Thức. Thức này vọng lập ra Danh Sắc, Tâm Vật từ Danh Sắc này dần dần phân tách ra, trở thành các loại tà thuyết phân môn lập hộ (chia tông lập phái) của khoa học triết học, xa rời bản thể Chân Như, cho nên mới có hiện tượng luân hồi mười hai duyên khởi. Vũ trụ chính là môi trường luân hồi hư vọng này. Đời người nói chung chính là cá thể chịu đủ đau khổ luân hồi. Hành giả Đại thừa biết rõ bản thể Chân Như cũng có Phật tính, mà thế giới Ta Bà (Sa Bà) cũng không phải là không thể chuyển thành Liên Bang[1], cho nên cố gắng khuyến hóa người khác, tôn sùng giáo hóa Tịnh Độ, ai nấy phát Bồ Đề tâm, từ tâm hành của biệt nghiệp, tích lũy tư lương từ bi, từ sự chuyển biến cộng nghiệp cũng có thể xây dựng Tịnh Độ ở nhân gian. Đây là việc mà các Bồ Tát Đại thừa đang thực hiện. Từ nhân Vô ngã, pháp Vô ngã này, hai thứ thực hiện đều, không thiên chấp Duy Thức, cũng không chấp nghiêng về Duy vật, đó là chính đạo Trung Quán của Đại thừa”. (34-25) Nói như vậy là đem Tăng thượng huệ học của “Duy Thức” và “duyên khởi Chân Như” (từ một) chia cắt thành hai pháp, là hiểu nhầm về lời của người Chủng trí Duy Thức. Người ngộ đạo thực sự chắc chắn sẽ không bao giờ nói như vậy. Điều đáng nói ở đây là các thày Mật tông đều không hiểu được lý duyên khởi Chân Như. Duyên khởi Chân Như là nói Tâm Thức thứ tám ở Nhân địa là tâm của phàm phu, thể tính của nó vốn đã là tính thanh tịnh, tuy ở trong Lục trần cùng vận hành cùng với chúng sinh nhưng là tùy duyên ứng vật, để cho chúng sinh tùy tâm hành sự. Tuy nhiên, trong việc chung với chúng sinh, khi hiển thị tác dụng của mình, nó lại hoàn toàn không bị nhiễm Lục trần, luôn luôn không tham không chán ghét, vẫn luôn vận hành theo tự tính thanh tịnh của nó. Thức thứ tám như thế, do có tính thường trụ bất hoại và có thể độc lập tự tại, cho nên có thể khiến cho người ta (hành giả) tu trừ sạch hết các chủng tử ô nhiễm từ thức thứ nhất đến thức thứ bảy tàng chứa trong nó để trở thành Chân Như ở Phật địa, cho nên mới gọi tính chất này của Thức thứ tám là duyên khởi Chân Như. Qua đó để thấy rằng cái lý về duyên khởi Chân Như không thể thành lập nếu đứng ngoài Thức thứ tám. Về đạo lý của Duy Thức, đó chính là chính lý về duyên khởi Chân Như, sao có thể tự mình hiểu nhầm rồi sau đó quay lại phỉ báng Duy Thức là pháp “đơn lẻ” được? Lại nữa, nội dung trong Chủng trí Duy Thức học không phải chỉ nói mỗi đạo lý duyên khởi Chân Như, mà còn nói về cội nguồn Tâm giác tri của chúng sinh, còn nói về cội nguồn Sắc thân của chúng sinh, còn nói về cội nguồn sinh khởi thế giới, còn nói về cội nguồn của việc chúng sinh luân chuyển trong Tam giới nữa. Đồng thời còn nói chi tiết hơn về Biệt tướng trí Bát bất Trung Đạo trong Bát Nhã, nhiều lần thuật rõ chỗ vi diệu của nó để đạt đến cảnh giới cứu cánh, không phải là những điều mà Bồ Tát dưới địa[2] có thể biết. Cho nên, cửa duyên khởi Chân Như chỉ là một bộ phận pháp rất nhỏ trong Chủng trí Duy Thức mà thôi, tuyệt đối không phải là toàn bộ Tăng thượng huệ học của Chủng trí Duy Thức. Nội dung mà tất cả các Bồ Tát trên địa[3] cần phải tu học chính là các môn học về Chủng trí Duy Thức. Phật gọi đó là Tăng thượng huệ học của Đại thừa. Các thày Mật tông không biết duyên khởi Chân Như chỉ là một phần nhỏ trong Chủng trí Duy Thức, cứ bám chấp vào một phần pháp nhỏ của Duy Thức, đã hiểu sai rồi lại đảo lộn cách nói, hạ thấp tông nghĩa của Duy Thức. Họ đã đem pháp Chân Như và pháp Duy Thức từ một chia làm hai, sau đó bịa đặt, phân chia cao thấp, hiểu sai Phật pháp một cách nghiêm trọng, sao có thể gọi là một tông của Phật giáo được? Những người ít học của Mật tông lại còn đem chia “Trung Quán” và “Duy Thức” làm hai phần. Ví dụ như hai vị Trần Thuần Long và Đinh Quang Văn đã không biết không hiểu gì về chính nghĩa của Duy Thức Như Lai Tạng, hiểu sai về ý chỉ của Trung Quán, còn đem “Như Lai Tạng và Trung Quán” trong Duy Thức chia làm hai pháp: “…Kỳ thực, “thành Phật là vĩnh viễn đoạn trừ Phiền não chướng, Sở tri chướng” thôi. Đó chính là chỗ tư tưởng thường tính vĩnh trụ của “Như Lai Tạng, Phật tính” sẽ sinh ra. Cũng khiến cho đông đảo tín đồ Phật giáo tu hành mới cảm thấy có ý nghĩa, nếu không thì cả thành Phật cũng sẽ vô thường, mọi người sẽ bận rộn uổng một trận…Sự tranh chấp giữa các tông phái trong Phật môn từ xưa đến nay không phải là một việc hay ho gì, Trung Quán, Duy Thức luận chiến ngàn năm, Phật pháp vẫn bị diệt vong ở Ấn Độ…” (226-5) Hai vị Trần Thuần Long và Đinh Quang Văn của Mật tông thuyết pháp như thế, thật đúng là kẻ thổ phỉ giết người mà lại vu cho người khác là thổ phỉ. Sự diệt vong của Phật giáo ở Thiên Trúc năm xưa không phải vì luận chiến giữa Trung Quán và Duy Thức mà tan rã, thực tế là bị diệt bởi tay của Mật tông – đúng như hai vị Trần Thuần Long và Đinh Quang Văn ngày nay đang đem ngoại đạo pháp thay thế cho Phật pháp chân chính – đoạt hồn cướp xác, như thế mà khiến cho Phật giáo ở Thiên Trúc bị diệt, cớ sao hai ông Trần Thuần Long và Đinh Quang Văn của Mật tông lại vu oan chỉ trích rằng cuộc luận chiến giữa Trung Quán và Duy Thức là vô nghĩa? Năm xưa, cuộc luận chiến giữa hai tông Trung Quán và Duy Thức, xét về mặt bản chất đều là cuộc luận chiến xảy ra giữa những người chưa ngộ của hai tông. Còn giữa những người đã ngộ thật sự của hai tông này tuyệt đối không thể có cuộc luận chiến nào cả. Thế nhưng, vì giữa những người chân ngộ của hai tông không có luận chiến nào, cho nên chắc chắn cũng chẳng có tư liệu nào truyền lại cho hậu thế. Còn giữa những người chưa ngộ hai tông, vừa xảy ra luận chiến lại vừa có rất nhiều tư liệu lưu truyền đến đời sau. Đã là sự biện luận xảy ra giữa những người chưa ngộ, thì những luận điểm còn lưu truyền lại cho đến ngày nay chắc chắn chỉ là những câu chuyện hý luận. Những học giả nghiên cứu Phật giáo đời sau đều là những người chưa ngộ, không biết “đạo lý bất nhị của Trung Quán và Duy Thức”, cho nên họ sẽ không hiểu biết gì về sự sai trái trong hý luận phát sinh trong những cuộc biện luận giữa những người chưa ngộ của hai tông, thì họ sẽ tiến hành nghiên cứu trên cơ sở hý luận của những người đó. Nghiên cứu như thế để rồi rút ra kết luận, thì làm gì có Phật pháp để nói? Những nhà nghiên cứu Phật giáo Âu Mỹ và Nhật Bản đều rơi vào trong hố này. Lão pháp sư Ấn Thuận của nước ta cũng dẫm theo bước chân của những nhà nghiên cứu đó mà rơi xuống hố, không thể tránh khỏi. Nay hai vị Trần Thuần Long và Đinh Quang Văn cũng hoàn toàn không hiểu đạo lý này, tùy thuận theo nghị luận của một số các nhà nghiên cứu Phật giáo chưa ngộ trong ngoài nước, dựa vào đó để nêu ra luận định. Họ đã không biết gì về sự thực Phật giáo Thiên Trúc bị diệt bởi tay Mật tông, còn lấy biện luận giữa những người chưa ngộ của hai tông Trung Quán và Duy Thức làm căn cứ để nghiên cứu bình luận thêm, dẫn đến những cuốn sách họ viết ra chỉ là những lời lẽ ức tưởng, suy đoán, chẳng có thực nghĩa nào để nói cả. Người chứng ngộ thực sự, tất sẽ biết Trung Quán chính là Trung Quán của Bát Nhã, cũng biết Duy Thức chính là Duy Thức của Bát Nhã, hoàn toàn không tách khỏi phạm trù của Bát Nhã. Ở đây ý nói Bát Nhã bao hàm tất thảy Phật pháp: Đầu tiên là tự nghe và huân tập Bát Nhã tương tự (na ná, gần giống vì chưa thực chứng) trong sự ức tưởng của mình; Tiếp theo là đến Tổng tướng trí Bát Nhã của thể tính Bát bất Trung đạo Chân Tâm biết được khi lần đầu chứng đắc Thức thứ tám; Sau đó, dựa vào Tổng tướng trí sau khi ngộ để huân tu Biệt tướng trí giảng trong các kinh hệ Bát Nhã, cho đến Nhất thiết chủng trí nói trong các kinh Tam chuyển pháp luân mà các Bồ Tát trên địa cuối cùng phải huân tu, tất cả đều gọi là Bát Nhã. Trung Quán chỉ là Tổng tướng trí và Biệt tướng trí mà người chưa ngộ phải tu chứng, cũng là pháp hàm nhiếp trong Bát Nhã. Còn Duy Thức là Nhất thiết chủng trí mà người tu được Biệt tướng trí sau khi ngộ cần tiến tu, cho đến tận Phật địa mới là viên mãn đầy đủ, mới gọi là Nhất thiết chủng trí. Còn tất cả Nhất thiết chủng trí mà bậc Bồ Tát trên địa từ lúc còn chưa tu học viên mãn cho đến Phật địa thì đều gọi là Đạo chủng trí. Trí tuệ của Trung Quán chỉ là Tổng tướng trí và Biệt tướng trí bao hàm trong trí tuệ Bát Nhã. Người chứng được hai loại trí tuệ này còn không thể đạt đến Nhất thiết chủng trí của Bát Nhã, còn phải đích thân theo Phật tu học sau khi ngộ (hoặc học theo các kinh Duy Thức sau khi ngộ) thì mới chứng được Nhất thiết chủng trí. Nội dung mà Duy Thức giảng chính là Nhất thiết chủng trí, tức là pháp trong các kinh điển Duy Thức mà Phật tuyên thuyết trong Tam chuyển pháp luân, mới là Đạo chủng trí mà Bồ Tát đã chứng được Biệt tướng trí Bát Nhã cần phải tiến tu. Cho nên, hai pháp Trung Quán và Duy Thức chỉ là sự phân biệt nông sâu, rộng hẹp, chứ pháp thực tế không có hai, thì sao các thày Mật tông lại tranh luận về pháp nghĩa giữa Trung Quán và Duy Thức? lại đem nó một chia làm hai? Như thế không đúng chính lý chút nào! Cho nên, tất cả mọi sự tranh luận giữa các học giả Trung Quán và Duy Thức trong lịch sử Phật giáo đều là hý luận giữa các phàm phu chưa ngộ, bởi những lời tranh luận đó đều không đạt đến Đệ nhất nghĩa đế. Tri kiến giữa những người chân ngộ trong hai tông Trung Quán và Duy Thức đều giống nhau, cho nên tuyệt đối không gây ra tranh luận nào hết. Nay hai vị Trần Thuần Long và Đinh Quang Văn hoàn toàn không biết lý này, chạy theo nghị luận của các học giả nghiên cứu Phật giáo chưa ngộ, nói việc Phật giáo bị diệt vong ở Thiên Trúc xưa là do luận nghị giữa Trung Quán và Duy Thức gây ra, không thể coi là chính luận được. Trung Quán là sự quan sát tính Trung đạo của Như Lai Tạng, Như Lai Tạng lại là bản thể của Trung Quán - Trung Quán dựa vào tính Trung đạo của Như Lai Tạng mà có, cho nên Trung Quán và Như Lai Tạng không thể chia một thành hai. Thế còn nội hàm của Phiền não chướng và Sở tri chướng mà Phật đã đoạn trừ, hai vị Trần Thuần Long và Đinh Quang Văn không thể nào biết được. Bởi hai người đó còn chưa biết Như Lai Tạng ở đâu, thì sao có thể biết được nội dung của Sở tri chướng? Họ cũng còn chưa biết nội hàm của Phiền não chướng thì sao có thể biết, có thể đoạn được Phiền não chướng? Bản thân mình còn chưa biết, chưa đoạn thì sao có đủ trí tuệ để dạy cho người khác đoạn được? Ở đây, hai vị ấy còn đang rơi vào trong cảnh giới của Tâm ý thức, chấp Tâm giác tri là Chân Như, thì không thể nào hiểu được “thường kiến ngoại đạo kiến” mà Phật thường nói trong các kinh điển Tam thừa là cái gì cả. Người chưa thể phá trừ được thường kiến ngoại đạo kiến như thế, sao có thể biết được đạo lý đoạn trừ Phiền não chướng của người Thanh Văn? Không biết không chứng được đạo lý đoạn trừ hai chướng, thì sao có thể dạy được người khác về Phật pháp? Thế mà họ lại còn dám lên mạng nói khoác về đạo lý thành Phật như đoạn trừ Phiền não chướng, Sở tri chướng…Làm gì có chuyện đó được! Lại nữa, hai vị đó nói rằng: “Sự tranh chấp giữa các tông phái trong Phật môn từ xưa đến nay không phải là một việc hay ho gì”. Câu này thì đúng, tôi cũng tán đồng. Tuy nhiên, hai người họ nói những lời này không phải là có tâm ý tốt gì, mà thực tế là muốn dựa vào câu nói này để nhằm che chặn việc tôi biện chính với “tà tư, tà pháp của Mật tông”, đồng thời cũng dẫn dắt sai lầm người khác rằng hãy “nhìn việc biện chính pháp nghĩa và tranh chấp giữa các tông phái là giống nhau”, đó là có ác tâm hiểm độc. Sự tranh chấp giữa các tông phái trong Phật môn tất sẽ khiến cho tài nguyên Phật giáo bị phân tán, khiến cho ngoại đạo ăn bám Phật pháp như Mật tông sẽ thừa cơ xông vào. Nhưng việc tranh luận giữa các tông phái thường chỉ tồn tại giữa những người chưa ngộ, chứ không bao giờ xảy ra giữa những người đã chứng ngộ cả. Sự tranh chấp giữa các tông phái và biện chính pháp nghĩa là hai việc khác xa nhau, thế nhưng những người học bình thường khó có thể biết được. Sự tranh chấp giữa các tông phái chỉ là sự tranh đấu cao thấp hơn thua, hai bên tranh chấp vì bộ mặt cao thấp truyền lại của tông phái mình, thà chết chứ không chịu nhận sai – cho dù có biết rõ mười mươi rằng pháp nghĩa của mình có sai lầm thì cũng biện luận đến chết, tuyệt đối không chịu nhận sai. Còn biện chính pháp nghĩa là luận pháp theo pháp, không luận về nhân tình, cũng không so đo về sự được mất của tông mình và phái khác, chỉ lấy pháo nghĩa của Phật làm chốn chỉ quy, cho nên nếu nhìn thấy người khác chưa ngộ mà nói ngộ, chưa chứng mà nói chứng, đem tri kiến sai lầm để dẫn dắt sai lầm chúng sinh thì người chân ngộ sẽ lập tức biện chính, làm cho rõ sự phân giới giữa chính và tà – trừ phi người ngộ sai đó chưa xuất thế hoằng pháp. Cho nên, người ngộ sai mà xuất thế hoằng pháp, sau khi nghe biện luận, biết mình sai lầm, lập tức cải chính, công khai nhận lỗi và sám hối, tuyệt nhiên không dám dấu giếm. Người chứng ngộ nếu nhìn thấy tà sư dẫn dắt sai lầm chúng sinh, tất sẽ biện chính pháp nghĩa. Còn những người chấp trước vào tông phái thì tất sẽ vu oan rằng “những lời biện chính pháp nghĩa” của bậc Thiện tri thức là sự tranh chấp môn hộ giữa các tông phái, thông qua sự nghe nhìn lẫn lộn này, mượn cớ để hạ thấp, tẩy chay hành động hộ trì chính pháp, cứu hộ chúng sinh của Thiện tri thức, mong muốn rằng với hành vi nghe nhìn lẫn lộn đó để bậc Thiện tri thức sẽ dừng biện luận pháp nghĩa, thì các tà sư đó vì thế mới tiếp tục duy trì được tà thuyết của mình, để tiếp tục dẫn dắt sai lầm chúng sinh, bảo vệ danh văn lợi dưỡng vốn có trước đây của mình. Ví dụ như thấy tôi viết sách biện chính pháp nghĩa như ngày nay, các tà sư Mật tông như hai vị Trần Thuần Long và Đinh Quang Văn chắc chắn sẽ nói chính hành biện luận pháp nghĩa của tôi là sự tranh chấp tông phái, ý nói rằng hành động này không có ích lợi gì cho Phật giáo. Thế nhưng, hành động vì chính nghĩa này của tôi kỳ thực là đem lại lợi ích lớn cho Phật giáo, đồng thời đem lại bất lợi lớn cho các thày tà pháp Mật tông, đem lại đại bất lợi cho các danh sư ngộ sai, vì thế mà những người đó nhất định sẽ vu rằng việc biện luận pháp nghĩa của tôi là sự tranh chấp môn hộ giữa các tông phái. Những người không biết lợi hại trong đó, những người có tâm ba phải, xuề xòa đều bị họ mê hoặc, bèn giương mắt đứng về phía họ, khuyên tôi ngừng biện luận pháp nghĩa, như thế thì Phật giáo sẽ không thể tẩn xuất ngoại đạo pháp ra ngoài, đồng thời sẽ tiếp tục để các ngoại đạo pháp của Mật tông được lưu giữ lại trong Phật giáo, tiếp tục chiến lược tằm ăn rỗi trong Phật giáo, tiếp tục ngoại đạo hóa pháp nghĩa của Phật giáo bằng phương thức tiệm tiến. Nếu không tăng cường tiết lộ để ngăn chặn, cuối cùng sẽ lại dẫm vào vết xe đổ Phật giáo Thiên Trúc thời xưa bị Mật tông diệt vong từ bản chất. Tất cả các đệ tử Phật có lòng bảo vệ chính pháp Phật giáo, tất cả những người có đại tâm muốn đem lại lợi ích cho người học Phật pháp từ nay về sau đều không thể coi nhẹ tầm quan trọng của việc biện luận pháp nghĩa, chớ để các tà sư Mật tông giảo biện nói biện luận pháp nghĩa là “sự tranh chấp môn hộ giữa các tông phái Hiển Mật”. Vì sao tôi lại nói những lời này? Vì Bát Nhã mà tôi ngộ được ở đời này hoàn toàn không có sư thừa (không do thày truyền dạy), thì lấy đâu ra quan niệm về môn hộ? Đó là tự chứng ngộ từ nền tảng chứng ngộ của đời trước, chứ không phải được truyền lại từ một tông phái nào hay vị thày nào. Đã không có sự truyền thừa từ một phái nào ở Hiển tông, cũng không có sự truyền thừa của một phái nào ở Mật tông, thì đâu cần tranh chấp vì môn hộ của một tông một phái nào, cho nên hoàn toàn không có cái gọi là “sự tranh chấp môn hộ giữa các tông phái”. Những gì mà tôi tu chứng được, đều là Phật pháp toàn diện – vừa có các pháp được Phật nói rõ trong kinh, vừa có cả các mật nghĩa Phật pháp mà Phật nói ẩn trong kinh, như thế là đầy đủ hai pháp Hiển Mật, chứ không phải chỉ có pháp của một tông một phái “duy Hiển (hay) duy Mật”, cho nên không cần thiết phải tranh chấp môn hộ vì một tông phái Hiển Mật nào. Thế nhưng, các thày Mật tông đều muốn giải thích sự biện luận pháp nghĩa của tôi thành sự tranh chấp môn hộ vì tông phái Hiển Mật nhằm cầu mong tôi dừng luận nghĩa về “pháp môn tà tri, tà kiến, tà tu của Mật tông”. Có điều, đại chúng nên biết rằng: Nếu như Mật tông thực sự là Phật giáo, thì hành động của tôi sẽ trở thành đại tội phỉ báng chính pháp, sau khi xả thọ nhất định sẽ phải xuống địa ngục chịu quả báo thuần khổ cực nặng trong trường kiếp. Tôi vừa tin sâu nhân quả, vừa cực sợ quả báo, thì sao lại dám gây đại nghiệp như vậy? Nên biết rằng những gì tôi làm tuyệt đối không phải là không có nguyên nhân, cần phải quan sát xem rất nhiều bình luận của tôi về pháp nghĩa của Mật tông liệu có đầy đủ lý lẽ và phù hợp với kinh điển hay không là có thể biết liền. Cho nên, trước khi đại chúng có thể phân biệt được thật giả, thì chớ có giương mắt đứng về bên ngoại đạo pháp Mật tông, đừng biểu thị sự ủng hộ đối với Mật tông là tốt nhất. Nếu không, một khi thành tựu cộng nghiệp “trợ giúp Mật tông phá hoại chính pháp Phật giáo” thì khi xả thọ lấy gì mà bổ cứu? Đại chúng nên biết rằng: Pháp Trung Quán và Duy Thức kỳ thực không khác nhau, đều từ kim khẩu của Thế Tôn nói ra. Chỗ không giống nhau chỉ là sự khác biệt nông sâu, thô tế, rộng hẹp mà thôi. Những người chứng ngộ thực sự và đã tiến tu Nhất thiết chủng trí chắc chắn đều đồng ý với lời nói của tôi, không có hai ý. Duy chỉ có các phàm phu chưa ngộ mới nảy sinh tranh luận về Trung Quán và Duy Thức Chủng trí, sai lầm cho rằng đó là hai loại pháp môn tu hành khác nhau. Kỳ thực, chủ thể của hai pháp đều không khác nhau, đều lấy Thức thứ tám Như Lai Tạng làm thể, duy chỉ có sự khác biệt về tu hành trước sau, khác nhau về nội dung nông sâu mà thôi, việc gì mà phải tranh luận mãi không thôi. Chẳng thà lấy thời gian tranh luận đó để tham Thiền, chứng lấy Tâm Thức thứ tám, cho đến khi chứng được Tâm Thức thứ tám rồi thì cung thỉnh các kinh Nhị chuyển, Tam chuyển pháp luân mà Phật đã tuyên thuyết ra đọc và so sánh, thì sẽ biết ngay lời tôi là thật, từ đó tuyệt đối sẽ không còn tin theo tà kiến của các chúng sinh phàm phu tranh luận môn hộ giữa các tông phái thời xưa nữa – vĩnh viễn không coi Trung Quán và Duy Thức là hai pháp để nảy sinh tranh luận cao thấp nữa. Nếu làm được như thế, thì hành vi ác độc của Mật tông tự tiện chia cắt pháp nghĩa Bát Nhã Phật giáo, dẫn đến pháp nghĩa Bát Nhã vi diệu của Phật giáo bị chia lìa, tan vỡ sẽ có thể biến mất khỏi đời nay và đời sau. Mật tông còn có bệnh lớn nữa là đem Hiển Mật chia làm hai pháp. Lại vì không biết Mật nghĩa thực sự trong Phật giáo, nên đã đem pháp dâm lạc, pháp quán tưởng thiên thân… của thế gian khẩu truyền mà không truyền rõ ràng của ngoại đạo xây dựng thành pháp thắng diệu cứu cánh trong Phật giáo. Từ duyên cớ đó mà khiến cho chính nghĩa Bát Nhã của Phật pháp bị chia lìa, tan vỡ. Ví dụ, Tông Khách Ba nói thế này: “Vì thời xứ (thời gian và không gian) có lượng và vô lượng, an lập gọi là to nhỏ. Nghĩa là nói nếu đạt được một mùi vị thực tính của chư pháp, dựa vào pháp chưa nhiễm ô để tu thiên du già (yoga), thì các đức như Sắc thân Như Lai không bị hạn chế bởi phân lượng thời xứ, phổ duyên tất cả mà tu, cho nên gọi là quảng đại. Nếu không có thiên du già này, tuy có du già thậm thâm, thông đạt tất thảy chư pháp không khác Chân Như, thì có pháp vẫn không thể vượt qua hạn lượng, cho nên gọi là nhỏ hẹp”. (21-543)
|
Home » 文章分类_VN » CUỒNG MẬT VÀ CHÂN MẬT |