The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Mục 3 – Huệ quán

 Mục 3 – Huệ quán

 

Dưới đây nói về Huệ quán trong Đạo quán đỉnh. Quán này do thượng sư thực hành Vô thượng Yoga (hành dâm với người khác giới trong đàn quán đỉnh, xuất tinh và lấy đó làm Cam lộ), quán đỉnh cho đệ tử, đồng thời tùy nghi giải thích, cho nên còn gọi là Đệ nhị quán thực hành – vì trong Đệ nhị quán chỉ giải thích vắn tắt (Trong quán đỉnh thượng sư bất cộng mới có giảng giải chi tiết, còn không phải là Mật quán trong “Quán đỉnh thượng sư bất cộng” nên chỉ giải thích đại khái). Thượng sư đã từng thụ “Quán đỉnh A xà lê bất cộng” nên đã hiểu rõ ý nghĩa nội hàm chân thực của Huệ quán Mật quán rồi, do đó có thể làm Mật quán cho đệ tử và quán đỉnh trí tuệ này.

Đệ tử trước khi muốn thụ quán đỉnh này, trước hết buộc phải theo thượng sư tu thành công Phong du già (Phong yoga), đồng thời có thể tự do nâng hạ Minh điểm, cũng có thể giáng hạ đến Ma ni (Ma ni của người nam gọi là quy đầu, Ma ni của người nữ là âm đế (mồng đóc, hột le), cũng gọi là Bảo châu luân) thụ lạc mà bất lậu (không xuất), thì mới có thể thụ quán đỉnh này. Đệ tử thụ quán đỉnh này, bắt buộc phải thụ quán đỉnh bí mật trước đã, nếu không sẽ không chấp nhận cho thụ quán đỉnh trí tuệ. Ý là nói người thụ quán đỉnh này buộc phải hiểu rõ nội dung và hàm ý của Mật quán và quán đỉnh này, sau đó mới có thể thụ quán đỉnh này. Nếu người nào không hiểu ý nghĩa của nó, sau khi quán đỉnh xong, chắc chắn sẽ bị thượng sư xâm hại tình dục. Vì lý do này, sợ sẽ làm tổn hại đến thanh danh của Mật tông và “sự nghiệp hoằng truyền”, cho nên mới đề ra những hạn chế nghiêm ngặt.

Pháp làm quán đỉnh: Trước hết phải tìm cầu được Minh Phi cụ tướng[1], ở đây là nói về người nữ có sáu tướng: “1. Cụ thú nữ: Thân trên vú săn chắc, thân dưới đầy đặn khép chặt, eo nhỏ, dáng đi nhàn tản, khi thấy người nam mắt không chớp liếc, thể khí và Mật xứ (chỗ kín) của cô ta có mùi xạ hương; 2. Cụ loa nữ: Tổng tướng là xương thô, thịt láng mềm, rốn có hoa văn xoáy ốc sang bên phải, thân thể khỏe mạnh, nhanh nhẹn, giọng nói trong sáng, thanh thoát; 3. Cụ tượng nữ: Tổng tướng là thân thịt tròn đầy, thân và các chi ngắn, khỏe mạnh, mắt nhỏ, tai dài và to, khi toát mồ hôi thì mùi vị cực thơm, thông tuệ ít ham muốn, (con) ong thường quấn theo; 4. Cụ văn nữ: Sắc da thịt hơi hồng, trên rốn có ba hoa văn thẳng, giữa mi có một vạch thẳng, các đốt chân tay nhỏ dài, người nào mà thân chi có hoa văn cát tường là đại cát, bảo vệ yêu quý trẻ con. Những người như thế phải đặc biệt tán thưởng chấp nhận ngay; 5. Chúng tướng nữ: Có bốn loại công đức, hoặc có hai, ba loại công đức. Trong các phần dạy dỗ khác cũng có tướng của Cụ ngưu nữ, người nữ này có cùng tính tướng với Cụ tượng nữ. Ngoài ra, cũng có loại chủng tính gọi là Cụ liên nữ (ở đây là nói cổ tử cung – phần mạch khẩu đầu chót của Trung mạch rõ ràng và dễ tiếp xúc với quy đầu)…Tất cả những người đó, bất luận thế nào cũng đều phải có các công đức như tóc, lông mày, lông mi không đứt đoạn, miệng và hơi thở có mùi xạ hương, có hàm răng đặc biệt đẹp, vú săn chắc, trên rốn có ba vạch thẳng, trên trán có một vạch thẳng, dưới thân háng rộng, liên (hạ thể) không lông, má đầy đặn, có mùi hương hoa long não, khi hành lạc có thể hành chỉ (và) sự (pháp tu song thân) cho đàn thành. Nếu có được những công đức đó thì mới là Sở y (nữ) thích hợp thành tựu”. (61-275~276)

Sau khi tìm được Minh Phi cụ tướng như thế, tiến đến phải tịnh trị sở sinh – đem Minh Phi tìm được đó tiến hành tịnh trị, sau đó mới có thể dùng làm “Phật Mẫu” trong pháp tu song thân. Pháp tịnh trị, trước hết là cho văn tư “Phật pháp” để tịnh trị người nữ ấy: “Khi nghe bốn bộ Mật tục của Kim Cương thừa (nghe giảng về Song thân pháp nói trong bốn bộ Mật tục của Kim Cương thừa), sinh khởi tín niệm bất cộng (tin theo pháp môn Kim Cương thừa không cùng giống với Hiển giáo), đoạn được hý luận (tin theo đầy đủ đối với Song thân pháp mà đoạn trừ được mọi ngôn luận khinh thị miệt thị Song thân pháp), không sợ hãi mà thực hành áo nghĩa thâm sâu (không còn sợ hãi mà tiến hành cộng tu nghĩa lý thâm sâu của Song thân pháp này)”. (61-277)

Tiếp đến phải tịnh trị người nữ bằng giới hành – giúp Minh Phi đó thụ thêm giới Tam muội da của Mật tông để phòng ngừa tiết lộ bí mật sau này: “Thụ thập thiện, ra sức hành pháp này (nỗ lực tu hành Song thân pháp này), khi hành Bố tát đến Ưu bà di viên mãn, nhằm để cho Biệt giải thoát giới, Bồ Đề tâm giới, Bồ Tát giới được thanh tịnh liên tục”. (61-277)

Sau đó, lại phải quán đỉnh cho vị Minh Phi này, để người nữ ấy trở thành đệ tử của Kim Cương thừa, mới có thể hợp tu pháp Lạc Không song vận với Minh Phi này, để Minh Phi hết lòng tin tưởng Song thân pháp là Phật pháp tối thượng. Sau đó mới có thể dựa nhờ vào việc hợp tu Song thân pháp với Minh Phi này mà lấy được “Cam lộ” để thực hiện Huệ quán cho đệ tử thụ Huệ quán: “Tịnh trị bằng quán đỉnh: Tức là viên mãn thanh tịnh bằng bốn loại quán đỉnh”. (61-277)

Sau khi tịnh trị Minh Phi như thế xong, vẫn chưa được làm Minh Phi để sử dụng ngay, mà còn phải rèn luyện cho Minh Phi tu thành công thiền định yoga (Bảo bình khí và công phu thăng giáng Minh điểm), như vậy thì mới có thể phối hợp với thượng sư thực hiện Lạc Không song vận, nâng giáng trong quá trình Huệ quán mà thành tựu Cam lộ dùng cho Huệ quán (tức là sản xuất ra dâm dịch cần thiết trong Huệ quán – Mật tông gọi đó là Cam lộ Bồ Đề tâm đầy đủ cả hai thứ hồng bạch Minh điểm. Tinh dịch của thượng sư là Cam lộ bạch Bồ Đề tâm, dâm dịch của Minh Phi là Cam lộ hồng Bồ Đề tâm): “Tịnh trị bằng thiền định yoga: Nhiếp khí bằng sức mạnh yoga, để có thể trì Bồ Đề tâm là được (đạt khả năng trì giữ tinh dịch Minh điểm không lậu rớt)”. (61-278)

Đó là nói về điều kiện của Minh Phi, theo phái Tát Già là cực kỳ nghiêm ngặt. Người không hội tụ đủ các điều kiện trên cũng không thể sử dụng. Với tiêu chuẩn nghiêm mật như thế, ý ở đây là: Minh Phi bắt buộc cũng phải biết kiểm soát cơn cực khoái tình dục của mình, khi được thượng sư cho phép, mới có thể nhập vào Đẳng chí (đạt cực khoái tình dục) để thể nghiệm cảnh giới Lạc Không song vận. Như thế thì mới có thể thu hái được hồng Bồ Đề tâm (dâm dịch) của Minh Phi. Việc phối hợp với thượng sư và cùng nhập vào cơn cực khoái tình dục như thế mới có thể lấy được hồng bạch Bồ Đề tâm đẳng phân (khiến cho hai bên nam nữ cùng lúc đạt cực khoái tình dục, để dâm dịch hai bên có phân lượng bằng nhau), như vậy thì mới có thể dùng làm quán đỉnh trí tuệ cho đệ tử Mật tông. Cho nên, tu hành trong phái Tát Già, muốn tìm được Minh Phi chuẩn mực không phải là việc dễ dàng gì. Sau khi tìm được xong, còn phải thực hiện rất nhiều công đoạn mới hoàn thành giai đoạn chuẩn bị, nếu không thì không thể thực hiện quán đỉnh trí tuệ thứ ba cho đệ tử được.

Những nội dung nói trên là nói về Minh Phi theo chủ trương của phái Tát Già, những điều kiện cần thiết phải có là nghiêm ngặt hơn so với các phái khác. Sau khi tìm được và tịnh trị cho Minh Phi xong, nhập vào đàn quán đỉnh rồi, vẫn còn phải tiến hành Ngữ, Dục, Gia trì đẳng quân: tức là Thân ngữ đẳng quân, Sở dục đẳng quân, Gia trì đẳng quân. Vấn đề này thuộc về công việc mà thượng sư cần phải làm trong quán đỉnh bí mật trí tuệ, cho phép được nêu ví dụ và tường thuật trong phẩn thực tu Song thân pháp ở Chương 9, ở đây tạm gác lại.

Trong loại quán đỉnh này liệu có bắt buộc phải sử dụng Minh Phi hợp tác với thượng sư hay không, thì ở thời Ấn Độ cổ đã có rất nhiều thuyết khác nhau, cho nên Tông Khách Ba mới nói thế này: “…Cho nên ở Ấn Độ phàm có 17 nhà, có người nói đệ tam trụ Ma ni lạc (có nói khi làm quán đỉnh thứ ba, thượng sư cần trụ ở đại lạc do quy đầu dẫn sinh), từ đó xuất Bồ Đề tâm (thông qua đại lạc đó mà phóng tinh, xuất ra bạch Bồ Đề tâm – tinh dịch – dùng để cho đệ tử nếm nuốt) tức là đệ tứ (tức là quán đỉnh thứ tư). Có người nói quán đỉnh thứ ba vô gián (thượng sư và Minh Phi cùng đạt cực khoái tình dục mà quán Lạc Không bất nhị, thượng sư và Minh Phi đồng thời song vận lạc xúc và Không tính quán, tức là không gián đoạn. Qua đó mà thu hoạch lấy dâm dịch, gọi nó là hồng bạch Bồ Đề tâm, đem cho đệ tử thụ quán đỉnh) nếm nuốt Bồ Đề tâm (này) là (quán đỉnh) thứ hai. Lại có người nói (quán đỉnh) thứ ba là vô gián (nếm nuốt dâm dịch Bồ Đề tâm), dùng Minh Phi khác (nếu bắt buộc phải dùng tiếp các Minh Phi khác, không chỉ dùng một vị Minh Phi) là thứ tư (thì tức là quán đỉnh thứ tư thứ ba)”. (21-399)

Ý đoạn văn này của Tông Khách Ba nói rằng, do liệu có phải dùng Minh Phi trong quán đỉnh bí mật thứ ba hay không (nếu không dùng Minh Phi, thì thượng sư phải dùng pháp quán tưởng để sinh lạc khoái, sau đó xuất tinh, thu lấy làm tinh dịch Bồ Đề tâm, hoặc dùng pháp thủ dâm để xuất tinh) để thu hoạch lấy bạch Bồ Đề tâm; hoặc không chỉ là dùng một vị Minh Phi mà còn phải dùng nhiều vị Minh Phi khác, sau đó thu giữ lấy hỗn hợp hồng bạch Bồ Đề tâm của nhiều vị Minh Phi và thượng sư, để quán đỉnh cho đệ tử và cho đệ tử nếm ăn, mà các phái lại nói khác nhau, không có định luận rõ ràng, nên không phải là pháp tuyệt đối. Vì thế, trong các phái khác cũng có chủ trương chỉ cần thuyết minh bằng ngôn ngữ để đệ tử hiểu là được rồi: “Khi truyền quán đỉnh thứ tư, để hiển thị như trước, duy chỉ cần ngôn ngữ để sinh hiểu biết, tức là (có thể) truyền quán đỉnh đó cho đệ tử rồi. Đệ tử cũng chỉ cần nhờ ngôn ngữ (giảng giải) là lập tức đắc quán đỉnh đó rồi, trở thành quán đỉnh thứ tư thành pháp khí”. (21-397)

Tông Khách Ba thì cho rằng, cần phải có Minh Phi hợp tác, thu lấy hồng bạch Bồ Đề tâm, để dùng trong quán đỉnh bí mật: “Vì mục đích giảng kinh…cho nên truyền quán đỉnh bí mật cuối cùng, tức là Sư trưởng và cửu Minh từ 12 đến 20 tuổi Đẳng chí (bắt buộc phải do Sư trưởng và chín vị Minh Phi tuổi đời khác nhau từ 12 đến 20, từng người lần lượt giao hợp với Sư trưởng cùng nhập vào cực khoái tình dục để quán Lạc Không bất nhị, sau đó lần lượt phóng tinh vào trong hạ thể của Minh Phi rồi lấy ra), cụ chủng (có đầy đủ hồng bạch Bồ Đề của cửu Minh – hỗn hợp dâm dịch của thượng sư và Minh Phi – có đủ chủng tử của hai bên nam nữ) Kim Cương (hỗn hợp dâm dịch này gọi là Kim Cương Bồ Đề tâm) trút miệng đệ tử, theo đó mà quán đỉnh. Phần trước quán đỉnh thứ ba như thế là cùng với một Minh (một vị Minh Phi) hợp thụ diệu hoan hỷ; phần sau là tùy thuận cùng cửu Minh đẳng chí (sau là theo cùng chín vị Minh Phi đồng nhập vào trong cực khoái tình dục), tức cùng từng người sinh diệu hỷ (để thu lấy Cam lộ quán đỉnh cho đệ tử)…” (21-399~400)

Vậy, rốt cuộc là phải cùng hợp tác với Minh Phi để thu lấy “Bồ Đề tâm chủng” hay là chỉ cần “bạch Bồ Đề tâm chủng” của bản thân thượng sư là có thể quán đỉnh? Hay là phải cùng phối hợp với nhiều vị Minh Phi để thu lấy “hồng bạch Bồ Đề tâm chủng” thì mới có thể truyền pháp quán đỉnh bí mật cho đệ tử đây? Các phái đều không có định luận thống nhất về vấn đề này, còn Tông Khách Ba thì cho rằng phải cùng chín vị Minh Phi đồng nhập “Đẳng chí”, sau đó thu hoạch lấy “Cụ chủng”, để rót vào miệng đệ tử, dẫn sinh dâm lạc nếm nuốt cho đệ tử, như thế mới là quán đỉnh thanh tịnh như pháp.

Phái Tát Già thì cho rằng bắt buộc phải phối hợp với Minh Phi thì mới có thể truyền thụ quán đỉnh bí mật cho đệ tử: “Đắc quán thứ ba: Sự phân biệt trong tầm tư có ba: Một, ban đầu có ít người tầm tư, vật Mật quán hiện hành ở loa - con ốc và bạng - con trai (xuất hiện ở trong âm hộ và dương vật), sau đặt lên lưỡi anh ta (sau đó thì đặt trên lưỡi đệ tử cho nếm); Hai, người hơi phân biệt (đệ tử nếu có chút tâm phân biệt cho rằng vật bí mật này là thứ bất tịnh): Vật đó đem điều hòa chế với sữa, rượu rồi ban cho uống; Ba, người đại phân biệt (đệ tử là người có tâm phân biệt nặng nề cho rằng dâm dịch dùng trong Mật quán này là thứ uế tạp): Vật đó không thể đặt trên lưỡi (vì đệ tử không dám nếm nuốt), thì chỉ thị hiện ở Minh điểm giữa hầu (thì chỉ chấm điểm ở giữa hầu đệ tử là được)”. (61-193~194) Đã nói có hai vật ốc trai thì biết rằng họ chủ trương bắt buộc phải dùng Minh Phi thật rồi.

Làm thế nào để thỉnh cầu thượng sư Kim Cương truyền thụ quán đỉnh bí mật này? Tông Khách Ba nói: “Trước hết cúng vật thỉnh bạch: Lấy màn chướng ngăn cách thành bình phong, đệ tử thắng giải (hiểu rõ) rằng: “Thầy là Kim Cương Tát Đỏa”, dùng Trí tuệ mẫu có đủ Tam muội da – là đồng nữ chỗ sinh bất hoại (chỗ sinh sản không hư hoại), tuổi đủ 12 đẳng [2]– phụng hiến cho Sư trưởng (Đem chín vị đồng nữ với bộ phận sinh sản hoàn hảo, không hư hoại, tuổi từ 12 đến 20 phụng hiến cho Sư trưởng vui vẻ để làm cúng dường”. Chữ “Đẳng” là chỉ một đồng nữ 12 tuổi, một người 13 tuổi…cứ thế cho đến một người 20 tuổi, tổng cộng là 9 vị đồng nữ). Như “Đại ấn Không điểm” phẩm thứ hai nói: ‘Đầu đẹp, mắt nhỏ dài, dung mạo diệu trang nghiêm (dung mạo bắt buộc phải xinh đẹp), mười hai hoặc mười sáu (tuổi tác phải ở khoảng giữa đủ 12 đến 16), khó tìm thì hai mươi (nếu tìm kiếm khó khăn thì có thể dùng người nữ chưa kết hôn tuổi đủ 20 để phụng hiến cho Sư trưởng hành lạc, nhằm nhận được tâm hoan hỷ của Sư trưởng). Trên hai mươi dư ấn (nếu là người trên 20 trở lên thì thuộc hạng dùng trong các Thủ ấn khác, không thích hợp dùng trong quán đỉnh bí mật), khiến Tất địa lìa xa (nếu dùng sẽ khiến cho Tất địa cần đạt được trong Mật quán ngày càng lìa xa, không thể đạt được hiệu quả), chị em hoặc con mình, hoặc vợ cúng Sư trưởng’” (21-376).

Như vậy là tùy theo sức mạnh tài chính của mình nhiều ít có thể thực hiện được, đem thiếu nữ trẻ dung mạo tuyệt sắc, hoặc dùng thiếu nữ trẻ tướng mạo hơi kém một chút, hoặc có thể dùng người nữ tuổi đã đến 20, cúng dường cho Sư trưởng khiến ông ta vui vẻ. Thậm chí, tài lực yếu kém, không đủ để quyên mộ được những người con gái chuẩn mực, thì đem vợ mình, chị em gái mình chưa quá 20 tuổi, hoặc đem đứa con gái nhỏ trong nhà ra để cúng dường cho Sư trưởng, nhận được sự vui vẻ của Sư trưởng, sau đó thì mới được thượng sư truyền thụ quán đỉnh bí mật này. Đó là phương pháp thỉnh bạch cầu thượng sư truyền cho Mật quán do Tông Khách Ba tuyên thuyết.

Tông Khách Ba lại nói rằng: “Vật tu (vật quán đỉnh Mật), tiếp đến thông qua việc Sư trưởng có Chủ tôn mạn, sau khi đem thân tục nữ quán Không xong, (quán tưởng ra) thân thiên nữ, trước hết cần gia trì liên hoa Kim Cương (trước tiên cần gia trì cho nữ âm của Minh Phi), rồi (cùng Minh Phi) nhập Đẳng chí (cùng nhập vào cơn cực khoái tình dục), tụng niệm (trong lúc đạt cực khoái tình dục) rằng: “Ông Tát Phọc Đạt Tháp Già Đạt A Nô Nhạ Già Na, Ban Tạt Bà Bạt Phọc, A Ma Quách Hàng”. Câu này có trong “Mạc Kinh” và “Tập Mật Kinh”. (Sau đó lại quán) tưởng chủng tử ở giữa tâm phóng quang chiêu thỉnh Tỳ Lô Phật (là Báo thân Phật tượng song thân của Mật tông) và Phật nhãn…nhập định (nhập vào trong cơn cực khoái tình dục nhất tâm bất loạn, không khởi tâm phân biệt), (lại quán tưởng Phật Phụ mẫu Tỳ Lô hành dâm đạt đại lạc rồi xuất ra hồng bạch Bồ Đề - dâm dịch), từ Tỳ Lô môn (từ đỉnh môn của mình) tiến vào trong thân mình, Đại tham dung hóa, chạy qua A Phọc Đô Để (qua Trung mạch) đến Ma ni Kim Cương (đến quy đầu), kiên cố Câu sinh (khiến cho dương vật luôn cương cứng, không mềm xìu mà sinh khởi Câu sinh lạc không ngừng nghỉ). Như “Tập Mật hậu tục” nói: ‘Kim Cương Liên Hoa hợp (nhị căn nam nữ giao hợp), tập chư hữu Kim Cương (thu tập lấy các Kim Cương tâm – tinh dịch của thượng sư và dâm dịch của người nữ), Thân Ngữ Ý gia hành (chỉ các hành vi nỗ lực thân khẩu ý nghiệp trong quá trình hành dâm), nó sẽ nhiếp trong tâm (đều thu nhiếp vào dâm dịch Bồ Đề tâm của hai bên nam nữ), từ Kim Cương lộ xuất (xuất tinh của đường niệu đạo), giáng vào miệng đệ tử (lại rót vào trong miệng của đệ tử)’” (21-376~377)

Tông Khách Ba lại nói rằng: “Người truyền pháp Mật quán đỉnh này, tiếp đến thu hoạch lấy Kim Cương của anh ta từ hoa sen ra (tiếp theo là móc hứng lấy Kim Cương tâm – dâm dịch ra khỏi hạ thể của Minh Phi): dùng ngón tay cái và ngón vô danh lấy Ma ni bảo ra (dùng hai ngón tay trỏ và áp út móc lấy tinh dịch mà thượng sư xuất vào trong âm đạo Minh Phi), thắng giải “Như Lai hóa chấp và Bồ Đề tâm mình không hai” (nên có sự hiểu biết rằng: chất dịch mà Như Lai hóa hiện ra và tinh dịch Bồ Đề tâm của mình không hề khác biệt). Nếu e ngại rằng đệ tử trì “Ngữ Kim Cương Di Đà Mạn” kia nhìn thấy mà không tin tưởng, thì che mặt anh ta lại, không cho tay mắt nó tiếp xúc (không cho đệ tử nhìn thấy hoặc sờ thấy bằng tay), tụng câu “Quá khứ Kim Cương trì, quán đỉnh cho Phật tử, lấy diệu Bồ Đề tâm (dùng dâm dịch Bồ Đề tâm thượng diệu như thế này), nay quán cho đệ tử” nói trong “Kim Cương Man Kinh”. Lại tụng câu chú chủ tôn: “Ông A Ban Tạt Chỉ Hồng”, (đem dâm dịch – Kim Cương tâm) đặt vào trong miệng anh ta. Đệ tử cũng nên quán tưởng là thể tính tổng tập của tất cả Như Lai như Phật Tỳ Lô, niệm tụng câu “A Hạ Ma Ha Biện Khách” rồi nuốt xuống, ý nghĩa câu chú là Đại an lạc hiếm có. Tiếp đến Minh Phi từ định khởi (sau đó Minh Phi đứng dậy thoát ra khỏi cảnh giới nhất tâm thụ lạc), không mặc quần áo, móc lấy giọt Cam lộ từ trong liên hoa (âm đạo của mình) ra, cũng đặt vào trong miệng của anh ta như thế (đặt lên lưỡi đệ tử thụ quán đỉnh kia), anh ta cũng nuốt uống như trên (đệ tử cũng uống nuốt giống như lúc thượng sư truyền cho trước đó). Nói như vậy là không phải cảnh giới mắt tay (không cho đệ tử nhìn thấy và tay chạm phải Cam lộ), cũng là dùng ngón tay cái và ngón áp út móc ra, cũng tụng chú và câu tụng như trước (rồi ban cho đệ tử nếm nuốt). Nói như trên, là uống bằng tổng tập hợp tất cả Phật tâm (quán tưởng tất cả Phật Phụ mẫu tập hợp trong thân thượng sư và Minh Phi rồi hành dâm thụ lạc, xuất ra hồng bạch Bồ Đề tâm, rồi hành giả Mật tông thu gom lại mà uống), cũng tụng “A Hạ Ma Ha Biện Khách” như trước. Luận sư Nguyệt Xứng… cũng nói: Tuy có một đệ tử (tuy lúc quán đỉnh chỉ có một đệ tử thụ quán), cũng phải cần có phụ mẫu đầy đủ truyền quán đỉnh bí mật (cũng cần phải có hai người là thượng sư và Minh Phi trong đàn tràng Mật quán cùng hành dâm với nhau mà truyền thụ quán đỉnh bí mật), khuyết một cũng không thành (nếu khuyết Minh Phi hoặc thượng sư, một trong hai người, thì coi là không như pháp)”. (21-376~377)

 


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg