The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 4 : Tổng bình lý luận quán đỉnh

 Tiết 4 : Tổng bình lý luận quán đỉnh

Quán đỉnh của Mật tông, chủ yếu có quán đỉnh kết duyên ở Nhân địa, và Bình quán, Mật quán, Huệ quán, quán đỉnh thứ tư. Nhưng vì nhu cầu trong các tình huống khác nhau mà xuất hiện rất nhiều loại quán đỉnh khác nhau. Song bất luận là loại quán đỉnh nào thì từ đầu đến cuối đều lấy lý luận Lạc Không bất nhị của pháp tu song thân làm căn bản, khi quán đỉnh đã trồng nhân duyên của pháp tu song thân trong tương lai rồi, cho nên Tông Khách Ba của Hoàng giáo nói: “Bên trong tu đạo Vô thượng thừa, bên ngoài thuận Biệt giải thoát hành, như thế mà hướng dẫn đệ tử” (Chi tiết xem trong “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”)

Tông Khách Ba tuy đã nhìn thấy các Lạt Ma của Hồng giáo tà hành dâm loạn, thọ dụng người nữ tham lam không chán, vì thế mà khởi tâm cải tạo Mật tông Tây Tạng, thành lập tông phái tu hành theo hệ thống Hoàng giáo, nhưng vì pháp môn thành Phật của Mật tông, trước sau đều xoay quanh lý luận Lạc Không bất nhị của dâm lạc, không thể xả bỏ, cho nên Tông Khách Ba không có cách nào để cải cách lý luận này, chỉ là hạn chế các điều kiện cho Lạt Ma thực tu bằng Minh Phi thực thể, tăng cường hạn chế một cách nghiêm mật mà thôi (ví dụ buộc phải chuẩn bị đủ công phu Sinh khởi thứ đệ), chứ hoàn toàn chưa từng đề cập đến việc cải cách pháp nghĩa tà trái hoang đường đó.

Bản thân Tông Khách Ba cũng mê đắm sâu nặng vào trong tà kiến của pháp tu song thân của Mật tông, nên mới nói rằng: “Bên trong tu đạo Vô thượng Lạc Không bất nhị, bên ngoài thuận theo Biệt giải thoát hành của Lạc Không bất nhị, hướng dẫn đệ tử tu hành Mật pháp theo cách đó”. Nói tu hành như thế có thể nhanh thành Phật đạo, cho nên Tông Khách Ba xưa nay chưa từng phủ nhận pháp tu song thân, xưa nay chưa từng phủ nhận pháp tu “Lạc Không bất nhị, Lạc Không song vận”, cũng chưa từng chủ trương các Lạt Ma Hoàng giáo của Mật tông không được phép hợp tu Song thân pháp với người nữ, chỉ là tăng cường hạn chế bằng điều kiện phải có công phu Sinh khởi thứ đệ, chỉ là chủ trương yêu cầu các Lạt Ma sau khi xả bỏ Tỳ kheo giới mới cho phép sử dụng Minh Phi thực thể để tu hành Song thân pháp mà thôi, chứ không cấm các Lạt Ma dùng Minh Phi thực thể để tu. Qua những lời lẽ trong cuốn sách “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” mà ông ta viết, có thể thấy nội dung đều xoay quanh Song thân pháp, đều lấy Song thân pháp làm tư tưởng nòng cốt trong “đạo Mật tông”, thì có thể biết rằng tư tưởng trung tâm của Tông Khách Ba bên Hoàng giáo cũng hoàn toàn chẳng khác gì so với các đại phái còn lại của Mật tông Tây Tạng. Với tâm hành và hành môn tà dâm, tham dâm như thế làm pháp môn tu hành, mà nói hành giả Mật tông là người “Biệt giải thoát hành”, rõ ràng không phải là người có trí tuệ.

Về việc tu hành Mật pháp trong Song thân pháp, Liên Hoa Sinh chủ trương lấy Sự nghiệp Thủ ấn Minh Phi thực thể là “Thượng”, cho rằng Trí tuệ Thủ ấn Minh Phi quán tưởng là “Hạ”: “Tự tu Bản tôn đại lạc không ngừng, dựa vào người nữ vừa ý có đầy đủ các tướng. Thượng đẳng là người nữ chân thật, trung đẳng là quán tưởng”. (34-552)

Thượng sư Trần Kiện Dân cũng có quan điểm như vậy: “…Các tỳ kheo không tiện dùng Sự nghiệp Thủ ấn, tu đến Minh Phi Tam muội da bằng quán tưởng trong quán đỉnh thứ hai là phải dừng, thế là phải nhảy qua quán đỉnh thứ ba, dùng cấp độ Minh ấn thực tế, trực tiếp tu Đại thủ ấn của quán đỉnh thứ tư. Các vị Kim Cương tát đỏa tại gia thì có thể dùng Sự nghiệp Thủ ấn (Chú thích gốc: Tỳ kheo nào mà muốn tu Sự nghiệp Thủ ấn thì phải đến trước Phật tổ xin hoàn giới tỳ kheo, đồng thời tuyên bố từ nay về sau dựa vào Mật pháp tu Sự nghiệp Thủ ấn, rồi sau đó phải rời khỏi chùa), thì dựa theo thứ tự mà tiến tu quán đỉnh thứ ba. Khi tu đến mức độ thành thục, khi Quang Minh bùng phát ở đại lạc của quán đỉnh thứ ba, thì nhận biết Quang Minh Đại thủ ấn. Tức là vào lúc đó, chính thức đắc quán đỉnh thứ tư, và bắt đầu tu Đại thủ ấn (bắt đầu tu Lạc Không song vận Đại thủ ấn của Song thân pháp). Đồng thời song vận với ảo thân, cái này thuộc về chính cơ của Mật thừa, tổ sư Tông Khách Ba dựa vào tác phong của cổ nhân mà đề xướng pháp ấy”. (34-727)

Không chỉ các Bồ Tát đã chứng ngộ trong Hiển giáo không chấp nhận đối với pháp tức thân thành Phật trong hợp tu song thân dâm dục, mà còn nói lý luận và pháp tu thực tế của họ đều trái ngược với đạo Giải Thoát và đạo Phật Bồ Đề. Kỳ thực, một số kẻ sĩ trí thức trong Mật tông cũng sớm có dị nghị rồi: “Lại nữa, trong cuốn “Trí thành tựu” cũng có nói: ‘Lạc sinh từ nhị căn, nói ác là chân thực. Thắng Phật chưa từng nói, đó là đại an lạc. Phàm nhân duyên sinh ra, đều không phải chân thực’. Như cái việc thông đạt Chân thực nghĩa Câu sinh trong quán đỉnh thứ ba kia, lẽ nào không mâu thuẫn với điều này?” (21-389)

Tông Khách Ba thì không chịu thừa nhận sự nghi ngờ nói trên, mà biện luận cho pháp tu song thân thế này: “Đáp rằng: ‘Không có tội lỗi’. Các kinh văn đó, là Câu sinh trí lúc phá đạo, là Câu sinh trí của Tự tính hoặc Tự thể. Không phải là nói Câu sinh trong quán đỉnh thứ ba kia không đạt chân thực, hoặc nói trong đó không có Câu sinh trí. Điều này, như “Vô thành tựu kinh” sau cũng nói: ‘Với tất cả các lạc đó, đều không phải Tự tính có, các bậc Thiện thệ chính trí, là hiểu biết về Tự tính. Bản tôn trong tất cả các loại lạc đó đều gọi là đại lạc. Đại lạc không phải là vô thường, đại lạc là hằng thường trụ mãi’. Phá những cái đó bảo không phải là Lạc chân thực, vì Lạc chân thực chỉ ở Phật địa mới có. Cho nên, nếu dẫn lời kinh văn đó để phá cái Lạc thông đạt chân thực, thì nên nói rằng tất cả đạo hữu học đều không có cái Lạc đó. Cho nên, Lạc chân thực gọi là Tự thể Câu sinh, hoặc gọi là Tự tính Câu sinh, ý nghĩa là không đợi công dụng nhân duyên, tận vị lai tế tùy ý vận hành nối tiếp” (21-389).

Tông Khách Ba mê muội vào dâm lạc của Song thân pháp này đến mức độ như thế, không thể nói ông ta là người có trí được. Tông Khách Ba còn giảo biện nói rằng: Dâm lạc trong thân thể là cái Lạc Câu sinh (có từ lúc người sinh ra), cho nên không phải là pháp vô thường. Ông ta lại nói: Trong thân của chư Phật và các thánh nhân hữu học cũng có thể có cái Lạc này, vì thế thường trụ thực pháp, cho nên không phải là pháp vô thường. Lại nói, khi tu đến Phật địa, mới có thể khiến cho Đại lạc Đệ tứ hỷ của dâm lạc này thường còn mãi, như thế mà đắc quả báo thường lạc, cho nên Mật tông coi cảnh giới này là cảnh giới của “Báo thân Phật” – vì thường hằng thụ nhận quả báo dâm lạc này. Bậc “Chí Tôn” của Hoàng giáo như thế, thật đúng là kẻ dâm uế vô tri, thế mà các hành giả Mật tông lại ra sức phụng hành theo sự hướng dẫn của ông ta mà tinh tấn tu hành, suốt đời không thay đổi, thật đúng là những chuyện quái lạ thời Mạt pháp.

Dâm lạc đương nhiên là sinh ra cùng với thân thể, nhưng nó không phải là pháp chân thực, cũng không phải là có cùng lúc khi được chào đời. Vì sao lại nói như vậy? Vì nó phải dựa vào Tâm ý thức giác tri và Sắc thân ở Dục giới mới có, là thứ tham trước nặng nhất trong Tam giới, không phải là pháp biến khắp tất cả mọi giới, không biến khắp mọi thời. Vì sao dâm lạc lại phải dựa vào Sắc thân và Ý thức ở Dục giới mới có? Vì dâm lạc chỉ là xúc giác trong cơ thể, nếu như không có Sắc thân ở Dục giới, thì loại thân xúc này sẽ không thể hiện khởi. Lại vì sau khi dâm lạc hiện khởi, còn phải cần có sự cảm nhận cảm giác dâm lạc của Thân thức, và sự lĩnh nạp xúc thụ dâm lạc của Tâm ý thức thì mới sinh ra lạc thụ mà được người trong Dục giới nhận biết. Nếu như không có Thân thức và sự lĩnh nạp cảm thụ dâm xúc của Tâm ý thức giác tri thì không thể có dâm lạc mà nói. Dâm lạc phải dựa vào tính giác tri của Thân thức và tính lĩnh nạp của Ý thức mới có. Mà Ý thức lại phải dựa vào ngũ sắc căn của Sắc thân thì sau đó mới được hiện khởi. Cho nên, Phật mới nói Tâm ý thức giác tri là y tha khởi tính, mà dâm lạc chỉ là pháp tái y tha khởi tính trong y tha khởi tính, chỉ là thứ hiện khởi sau cùng trong y tha khởi tính, thì sao có thể nói nó là thường được? Tông Khách Ba lại không hiểu nổi cái lý cực nông này, thì sao có thể tôn sùng ông ta là bậc “Chí Tôn” được? Những người trong Hoàng giáo thật đúng là những kẻ vô trí.

Lại nữa, dâm lạc chỉ là thứ tham trước thô nặng nhất trong Tam giới. Phật khi giảng về tám môn giải thoát trong Tứ A Hàm, có nói người trong thế gian nếu tu được Sơ thiền, thì có thể giải thoát khỏi sự trói buộc của Dục giới. Nếu có thể tu được Nhị thiền thì có thể giải thoát khỏi sự trói buộc của ba tầng trời Sơ thiền… Cho đến tu được Diệt tận định thì có thể giải thót khỏi sự trói buộc của Phi tưởng Phi phi tưởng thiên. Nói như thế cũng có nghĩa là Ý thức chỉ là thứ thô nặng nhất trong các loại trói buộc của Tam giới. Nếu như con người ta có thể đoạn trừ được tà kiến “Ý thức thường trụ bất hoại” thì có thể giải thoát khỏi sự trói buộc của thường kiến kiến. Người nào không thể đoạn trừ được tà kiến “Ý thức thường trụ bất hoại” thì mãi mãi không thể nào chứng được Diệt tận định, vĩnh viễn không thể nào thoát khỏi sự trói buộc của Tam giới, mãi mãi luân lạc trong bể khổ sinh tử, vì Ý thức là gốc rễ của sinh tử luân hồi.

Ý thức đã không phải là tâm thường trụ bất hoại, lại còn là tâm vô thường dựa vào pháp khác mà sinh ra. Chúng sinh vì chấp bám vào tà kiến Ý thức thường hằng bất hoại nên mới luân hồi sinh tử, cho nên mới là thứ mà Phật thường khai thị phải đoạn diệt. Tà kiến “Ý thức tự thân thường hằng bất hoại” vốn đã là nguyên nhân chính gây ra trói buộc trong Tam giới, cho nên Phật mới thường khai thị phải đoạn trừ nó, mà dâm dục lại phải dựa vào tâm Ý thức mới có được, cho nên cần biết rằng dâm dục chính là “tái y tha khởi tính” trong y tha khởi tính. Đã là như vậy thì Tông Khách Ba không nên nói rằng lạc xúc dâm dục là pháp thường trụ mới đúng.

Còn về cái Đại Lạc, phải vô khổ vô lạc, tịch diệt Niết Bàn, mới thực sự gọi là Đại Lạc, vì không có sự biến dị (thay đổi). Nay quan sát cái dâm lạc – bao gồm cả Không Lạc bất nhị mà Mật tông tu thành trụ lâu dài trong cảm giác dâm lạc – đều là có Thụ. Đã có Thụ tức là rơi vào trong Thụ uẩn, mà Thụ uẩn cũng là pháp biến dị vô thường. Pháp biến dị vô thường thì không thể gọi là Thường Lạc được. Lạc thụ dâm xúc có biến dị, có lúc tồn tại, có lúc đoạn diệt, không thể gọi là “Diệu lạc thường trụ bất biến” được. Cho nên cái “thường trụ bất biến” của Lạc Không bất nhị mà Tông Khách Ba nói không phải là chính thuyết (lý luận đúng đắn) được. Với cái lạc vô thường biến dị như thế, Tông Khách Ba sao có thể gọi nó là thứ tôn quý trong Lạc được? Sao có thể gọi là Chí Tôn được? Tuyệt không thể có cái lý ấy. Tông Khách Ba không nhận ra được điều này, tất nhiên không thể gọi là người có trí tuệ được.

Mật tông Tây Tạng tu chứng cái lạc dâm dục bằng nam nữ song thân, còn gọi đó là pháp thành Phật cứu cánh, bắt đầu từ Mật tông ở Thiên Trúc, giữa đến phái Cát Đương truyền vào Tây Tạng, cuối cùng phân liệt thành bốn phái lớn, cho đến Tông Khách Ba người sáng lập ra phái cải cách Hoàng giáo tuyên xưng là thanh tịnh nhất sau này đều lấy tu chứng dâm lạc trong nam nữ song thân hợp tu làm nòng cốt cho lý luận tức thân thành Phật và pháp môn tu hành trong Mật giáo, dường như có thể nói rằng: Không có tông phái nào của Mật tông Tây Tạng lại đứng ngoài pháp tu song thân. Các thượng sư của Hoàng giáo Mật tông ai ai cũng biết rõ Tông Khách Ba mê đắm vào cảnh giới dâm dục của Song thân pháp, nhưng lại cố ý che dấu khắp nơi đối với những người mới học trong Mật tông, còn lừa dối người học rằng: “Tông Khách Ba phản đối pháp dâm dục nam nữ hợp tu, cho nên Hoàng giáo không tu Song thân pháp này”. Họ đã dùng những lời nói dối trá để lừa người vào tròng mà không nói rõ, khiến cho người học tin sâu không chút nghi ngờ, sau đó ngầm nói riêng cho từng người biết Hoàng giáo của Mật tông thực tế lấy pháp này làm tư tưởng trung tâm, thực sự là tu pháp này để thành Phật đạo. Tâm thái bất chính như vậy, quả thực đáng lên án.

Ví dụ hành giả cuồng Mật là hai vị Trần Thuần Long (Diệu Đam) và Đinh Quang Văn đã bác bỏ hành vi phá tà hiển chính của người khác, xảo biện bênh vực không đúng sự thật cho Tông Khách Ba như sau: “Giới Phật học chúng ta mấy năm gần đây có một số người hiếu ác, thành kiến quá nặng, độc tôn bản phái của mình…công kích Thời Luân Kim Cương, Thượng Lạc Kim Cương, Hỷ Kim Cương hiển thị qua tượng song thân của Mật tông…đúng là lũ tà ma. Kỳ thực, đại sư Tông Khách Ba của Hoàng giáo Mật tông sớm đã cấm đoán và cải cách đối với một số thói quen xấu của Tây Tạng, có đến hơn 80% người Tạng tu theo Hoàng giáo, một khi tăng chúng phạm tội tà dâm, thì lập tức bị giáng thành người tại gia, cả đời không được tái xuất gia nữa. Nề nếp của họ còn nghiêm ngặt hơn cả người Hán”. (226-6)

Thế nhưng hai vị Trần Thuần Long (Diệu Đam) và Đinh Quang Văn nói những lời lẽ đó trên mạng xã hội thực chất chỉ là những lời bịa đặt, buông lời “đại dối trá tày trời” đối với đại chúng. Vì Tông Khách Ba thực tế chủ trương không lìa tham dục, đồng thời cũng không phải là người cấm tuyệt dục tham. Ví dụ trong tiết này đã nêu ra chủ trương của Tông Khách Ba: Dâm lạc là Đại Lạc thường trụ bất hoại, đồng thời còn nói phải thụ quán đỉnh thứ tư và cùng thượng sư hợp tu cảnh giới “Lạc Không bất nhị” trong dâm lạc, thì mới thành tựu “công đức” của quán đỉnh thứ tư. Như thế rõ ràng là Tông Khách Ba tán thành pháp tu song thân, cho nên hai vị Trần Thuần Long và Đinh Quang Văn đã nói lời không thật, đích thực là những kẻ nói dối.

Tông Khách Ba còn chủ trương rằng, khi quán đỉnh cho đệ tử, phải có thiếu nữ 15, 16 tuổi xinh đẹp để làm Minh Phi, thì mới có thể tiến hành quán đỉnh, cho nên ông ta nói về nghi lễ quán đỉnh như sau:

“Khi tu Mạn đà la, sinh Tam muội da Mạn đà la, về quy định nhập Trí đàn, như “Man luận” nói: ‘Cái Mạn đà la vẽ ra sau khi Không (trống rỗng) trong sát na, Mạn đà la tu nhờ quán tưởng mà thành có thủ hộ luân, đinh ma ngại’ vân vân, nghi quỹ quyến thuộc, như ‘Minh Phi nhan sắc mỹ diệu, tuổi chừng mười lăm mười sáu, hương hoa sức thật trang nghiêm, muốn lạc khoái trong đàn thành (cùng tiến hành dâm lạc với thượng sư trong đàn quán đỉnh). Đức mang ma ma cách, người trí tuệ gia trì cho, vào tịch tĩnh trang nghiêm, Phật trụ hư không giới’. Ý là nói cùng Ngoại ấn (Minh Phi người thật gọi là Ngoại ấn) nhập vào Đẳng chí định (cùng trụ vào trong cơn cực khoái tình dục nhất tâm bất loạn). Nếu không có Ngoại ấn, thì phải cùng Trí ấn (Minh Phi quán tưởng ra) nhập định (cùng trụ vào trong cơn cực khoái tình dục nhất tâm bất loạn). Với âm thanh hoan hỉ chính hành (Tiếng kêu rên khoái lạc lúc giao hợp hành dâm gọi là âm thanh hoan hỉ chính hành. Tông Khách Ba cho rằng dâm hành trong Song thân pháp là sự tu hành đúng đắn trong tu học Phật đạo, cho nên gọi tiếng rên rỉ lúc hành dâm là “âm thanh hoan hỉ chính hành”), chiêu thỉnh Trí luân, đầu tiên cúng dường rửa chân, (sau đó quán tưởng Phật Phụ và Phật Mẫu giao hợp sinh đại lạc mà xuất ra hồng bạch Bồ Đề tâm) nhập vào trong cơ thể, dục hỏa làm tan chảy (làm tan chảy và xuất ra bằng lửa dục của mình và Minh Phi), từ đường Kim Cương (niệu đạo) vào trong Liên Hoa (chảy vào trong âm hộ Minh Phi), phóng ra Trí luân (xuất ra Minh điểm tinh dịch), nhập vào Tam muội da luân (cùng trụ vào trong cơn cực khoái tình dục nhất tâm bất loạn)”. (21-302~303)

Tông Khách Ba của Hoàng giáo đã trích dẫn cuốn luận đó, đồng ý với nội dung của nó, lại còn giải thích chi tiết thêm, như vậy có thể thấy Tông Khách Ba cũng chủ trương rằng quán đỉnh chính thức của Mật tông là phải dùng Minh Phi thực thể (người thật) mới chuẩn mực. Đã như thế thì sao có thể nói Tông Khách Ba là người phản đối Minh Phi thực thể? Sao có thể nói thày trò Hoàng giáo như Tông Khách Ba là những người “giới hạnh thanh tịnh”? Tông Khách Ba truyền đạo Mật tông như thế, đã phá giới tà dâm trong mười giới nặng của Bồ Tát giới, sao có thể nói Tông Khách Ba là nhà cải cách? Cho nên, Tông Khách Ba chỉ là người đặt thêm các điều kiện hạn chế nghiêm ngặt hơn đối với pháp hợp tu song thân của Lạt Ma và Minh Phi thực thể mà thôi, chứ không hề cấm đoán Lạt Ma của Hoàng giáo tu pháp dâm lạc song thân với người nữ. Đồng thời, ông ta còn chủ trương bắt buộc phải tu học Song thân pháp, coi Song thân pháp là pháp tu căn bản của Hoàng giáo. Tâm thái đó chỗ nào cũng thấy trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” mà ông ta biên soạn. Nực cười thay, ngày nay hai vị Trần Thuần Long và Đinh Quang Văn lại có thể trừng mắt nói láo, tiếp tục lừa bịp chúng sinh đi vào tà đạo đó, chẳng phải là những kẻ có ác tâm hiểm độc hay sao?

Tông Khách Ba có lúc thậm chí còn trích dẫn nội dung trong Mật tục, đồng ý sử dụng Minh Phi thực thể, lại còn có thể dùng đến năm người cùng lúc: “Cho nên, đây nhất định phải tu Song thân pháp, hơn nữa nhất định phải có người nữ. Bản thân tổ sư Tông Khách Ba cũng thừa nhận rồi, ông nói không những là dùng người nữ, mà ít nhất phải dùng đến năm người. Hồng giáo thì chủ trương chỉ cần một người là đủ rồi. Về mặt lý luận, tại sao lại phải dùng đến năm người nữ? Bởi vì năm người chính là đại diện cho Phật Mẫu ngũ phương, cho Ngũ trí, phải phối hợp như thế đó! Bởi vậy, phải lựa chọn các Không Hành nữ có thể tính khác nhau, có Không Hành Mẫu thuộc bộ Kim Cương, Không Hành Mẫu thuộc bộ Liên Hoa…” (32-238~239)

Thế nhưng, những lời nói đó của Thượng sư Trần Kiện Dân vẫn còn có phần khách sáo. Vì sao vậy? Vì chương này trước đây từng trích dẫn những lời nói của Tông Khách Ba, đã chứng minh rằng Tông Khách Ba không chỉ chủ trương Song thân pháp là căn bản của “đạo Mật tông” mà còn chủ trương: Các thượng sư Hoàng giáo khi làm lễ quán đỉnh thứ tư buộc phải dùng đến “Cửu Minh” để làm quán đỉnh cho đệ tử. Cho nên, khi truyền quán đỉnh bí mật “như pháp” cho đệ tử, các Lạt Ma của Hoàng giáo Mật tông “như pháp” chân chính phải dùng đến chín vị Minh Phi, sau khi lần lượt hành dâm với từng vị Minh Phi, xuất tinh vào từng người, thu gom tất cả hỗn hợp dâm dịch đó lại để làm cam lộ cần thiết cho lễ quán đỉnh. Đồng thời còn phải biểu diễn tại chỗ cho đệ tử quan sát, xong việc thì ban “Cửu Minh” cho đệ tử, lệnh cho đệ tử lần lượt thực tu Song thân pháp cùng với chín vị Minh Phi, còn vị Lạt Ma Hoàng giáo thì đứng bên cạnh chỉ đạo sát sườn. Cho nên, Tông Khách Ba không phải là không cho phép người xuất gia sử dụng người nữ mà chỉ là tăng cường các điều kiện hạn chế nghiêm ngặt hơn đối với tư cách sử dụng người nữ trong hợp tu Song thân pháp mà thôi. Vì thế, Tông Khách Ba hoàn toàn là người phụng hành trung thực pháp hợp tu song thân của Mật tông không thêm bớt, vẫn là tín đồ trung thành của pháp tu Tính Lực phái của Ấn Độ giáo.

Lại nữa, Tông Khách Ba chủ trương (kỳ thực là Mật tục do tất cả các thượng sư Mật tông biên tạo ra đều chủ trương như vậy) trước khi nhập vào đàn quán đỉnh, buộc phải xưng tán, ca ngợi thể tính Đại Lạc của hành dâm, tán thán hành dâm có thể khiến cho người ta chứng được trí tuệ phương tiện, sau đó mới cho phép đệ tử vào đàn để thụ quán đỉnh: “Tiếp theo là cho phép đệ tử vào, cho nên trước hết phải tán thán tính chân thực của trí tuệ phương tiện của thể tính Đại Lạc, cầu Mạn đà la Tất địa, đế ngữ gia trì, tức là chín bài tụng như Hư không sinh… Tam thanh tịnh chân thực ca: ‘Tôn vô quá thường trụ, tất thảy ái trong tham, Thế Tôn đại tham hỷ, ta tu chân thực tính’. Nói “vô quá – không có sai lầm, tội lỗi” là nói đoạn được tất cả mọi chướng và tập khí, “thường trụ” là nói ba thân thường trụ ở tận hư không tế. Đắc tất thảy mọi tham dục của Tất địa, có thể thực hiện tham trước tất cả mọi sự nghiệp hữu tình, cho nên mới là người đại tham có đại bi vô duyên. Vì sinh hoan hỷ bằng vô tướng pháp nên gọi là Đại hỷ”. (21-322~323).

Như vậy, Tông Khách Ba của Hoàng giáo Mật tông chủ trương trước khi muốn nhập đàn quán đỉnh thì phải ca tụng “tính chân thực” của đại tham, đại lạc. Pháp môn quán tu mà Tông Khách Ba truyền thụ cũng là lấy “đại tham, đại lạc” của khoái lạc tình dục làm tư tưởng trung tâm và tu chứng cuối cùng của ông ta. Việc truyền thụ, tu và chứng như thế, thì sao có thể nói Tông Khách Ba phản đối Song thân pháp được? Cho nên, hai ông Trần Thuần Long và Đinh Quang Văn nói “Tông Khách Ba cấm đệ tử Hoàng giáo tu Song thân pháp” chỉ là nói láo, đúng là những kẻ không thành thực.

Tông Khách Ba lại chủ trương quán đỉnh thứ tư tuy là hợp tu Song thân pháp với thượng sư hoặc hợp tu Song thân pháp với chín vị Minh Phi và có thượng sư ở bên chỉ đạo tại chỗ, mà chứng được Câu sinh lạc (dâm lạc của Đệ tứ hỷ), nhưng vì không thể tu thành công công phu trụ lâu dài ở trong cảnh giới dâm lạc, cho nên Câu sinh lạc chứng được không được gọi là “thường, lạc”: “ ‘Câu sinh lạc có hai loại, gồm loại tạm thời và loại thường trụ. Loại thường trụ mới là đệ nhất, vì nó tối thắng, chân thực vô tận và vô hoại’. Nó liên tục không ngừng và vô cùng tận cho nên mới gọi là Thường. Nếu chỉ an trú trong sát na đầu, hoặc sát na thứ hai mà gọi là Thường, thì đó là ác kiến của ngoại đạo”. (21-390)

Nói như vậy, có thể thấy Tông Khách Ba chủ trương rằng: phải trụ trong giác thụ đại lạc của Đệ tứ hỷ dâm lạc thật lâu dài, duy trì cảm giác cực khoái tình dục dâm lạc sao cho “liên tục không ngừng và vô cùng tận” thì mới có thể “gọi là Thường”. Không những ông ta yêu cầu tín đồ, đệ tử không được coi việc cùng hưởng dâm lạc Đệ tứ hỷ với thượng sư là “thường lạc” mà còn buộc phải cầu chứng trụ lâu dài trong cảnh giới dâm lạc Đệ tứ hỷ thì mới được gọi đó là “thường lạc”. Có thể thấy rằng Tông Khách Ba quả thực coi dâm lạc là pháp môn chủ yếu tu hành tức thân thành Phật của Hoàng giáo Mật tông. Những lời lẽ đó đều được ghi chép trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” do chính Tông Khách Ba biên soạn. Nay nực cười thay, hai vị Trần Thuần Long và Đinh Quang Văn lại xảo biện hộ cho Tông Khách Ba.

Tông Khách Ba lại nói rằng:

“Thất chi, như Ngữ Tự Tại nói rằng: ‘Mãn báo, kết hợp, lạc vô tính, bi, mãn, bất đoạn, và vô diệt, thất chi nghĩa mà ta cho phép tu, người trí tu khắp và có chính lượng tán thán’. “Báo thân viên mãn – Mãn báo” là chỉ thân có tướng hảo trang nghiêm; Cũng nhiếp Pháp thân và Hóa thân, vì ba thân không có dị thể. “Kết hợp” là chỉ cùng Minh Phi cùng nhập Đẳng chí (Mật tông gọi hợp tu Song thân pháp để hai bên nam nữ đồng thời trụ trong cực khoái tình dục là Đẳng chí). Nếu chỉ có Báo thân, trong Ba La Mật Đa (Đại Thừa) cũng nói rằng với loại Kết hợp này sẽ thắng nghĩa lý kia (Mật tông cho rằng Đẳng chí Đại lạc của sự kết hợp nam nữ song tu này còn siêu việt hơn cả đạo lý “Ba La Mật Đa Đại Thừa”). Thế nào là Tu Di? Duy chỉ bằng Tự tính hoan hỷ biến khắp tất thảy thân, tức có thể thực hiện lợi ích cho tất thảy hữu tình (Biến khắp tất thảy thân phân – tức là tất cả mọi nơi trong thân đều sinh ra đại lạc, gọi là biến Tu Di. Chỉ có Tự tính hoan hỷ biến khắp tất cả trong thân thì mới có thể thành công đạt đến đại lợi làm lợi cho tất thảy chúng sinh hữu tình). Phật vì để nhiếp thụ hữu tình tăng thượng tham hành trong Dục giới, cho nên hiện Đẳng chí (“Phật của Mật tông” vì để nhiếp thụ chúng sinh cực tham muốn dâm lạc trong Dục giới, nên thị hiện “cùng Minh Phi cùng trụ trong cảnh giới Đẳng chí dâm lạc nhất tâm bất loạn”). Nam nữ mà ảo sư hóa hiện, trù mật không sinh Đại Lạc. Từ đây mà khởi (từ trong Song thân pháp này thì có thể sinh khởi), cho nên gọi là Đại Lạc. Lĩnh thụ thân lạc là Lạc, lĩnh thụ tâm lạc là Hỷ. Đại có nghĩa là rộng lớn nhất (lạc lan khắp thân nên gọi là rộng), vô lậu (Minh điểm tinh dịch không lậu rớt), thù diệu (Đệ tứ hỷ siêu việt hơn cả cực khoái tình dục của người thế gian), tận vị lai tế (trong vô lượng kiếp tương lai, khi muốn hưởng thụ khoái lạc là có thể thụ lạc, cho nên gọi là “tận vị lai tế”. Báo thân Phật của Mật tông bắt đầu từ lúc thành Phật là mãi mãi thụ hưởng lạc xúc Đệ tứ hỷ trong tất cả mọi thời). Để hiển thị nó là vô tự tính (cảm giác dâm lạc do không phải là vật chất có tướng hình sắc nên gọi là “vô tự tính”), phi chấp hữu (khi thụ lạc, không chấp trước các Hữu của vật chất thế gian nên gọi là “vô chấp hữu”), cho nên nói vô tính…” (21-393)

Thế nhưng, những lời nói đó của Tông Khách Ba đều là những lời lẽ bịt tai trộm chuông, không phải là người thành thực đối diện với “pháp nghĩa tà trái của Mật tông”. Bởi vì, Thế Tôn xưa nay chưa từng “để nhiếp thụ hữu tình tăng thượng tham hành trong Dục giới, cho nên hiện Đẳng chí”. Trong các kinh Tam thừa cũng chưa từng thấy Thế Tôn lấy pháp tham dâm để “thị hiện tượng dâm lạc song thân” nhằm độ chúng sinh, hơn nữa trong tất thảy các kinh đều nói dâm lạc là sự tham trước thô nặng nhất trong Tam giới, cần phải đoạn trừ nó. Thậm chí cho đến “Lăng Nghiêm kinh” là kinh điển Chân Mật cũng nói như vậy, đồng thời cực lực phá bỏ nó. Chỉ có các cuốn kinh ngụy tạo như “Đại Nhật kinh” do tập thể các thượng sư thời xưa của Mật tông kết tập trong thời gian dài rồi sáng tác ra mới nói như vậy. Cho nên, những lời lẽ của Tông Khách Ba chỉ là những lời do ông ta tự bịa ra, không phải là sự thật.

Lại nữa, theo tất cả những gì nói trong kinh Hiển giáo thì Báo thân viên mãn mà Phật chứng được không phải là tượng ôm Minh Phi hành dâm thụ quả báo dâm lạc như Mật tông nói. Cho nên, câu “Báo thân viên mãn đều là tướng song thân giao hợp thụ lạc” mà Mật tông nói kia chỉ là bịa đặt, không phải là sự thật.

Lại nữa, đạo thành Phật là nằm ở việc chứng đắc Tổng tướng trí và Biệt tướng trí của Bát Nhã và Nhất thiết Chủng trí chứ không phải là nhờ “cảnh giới Ý thức Không Lạc bất nhị” của dâm lạc mà được thành Phật. Các thày Mật tông không nên mê tín vào pháp dâm lạc của ngoại đạo phái Tính Lực do Mật tông Thiên Trúc truyền lại, không nên mê tín như Tông Khách Ba mà nói thứ dâm lạc tà trái kia là “Đại lạc thành Phật”, không nên bắt chước hành động ngu xuẩn của Tông Khách Ba mà nói dâm lạc là pháp môn tu hành thành Phật để tránh bị những người có trí cười chê là những kẻ vô trí.

 

 

 


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg