The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 4 : Tổng bình lý luận quán đỉnh -3

 Như vậy là trong đoạn văn Đa La Na Tha bị các Lạt Ma Mật tông cấy tang vật vu oan đã ghi chép rõ: Nếu thấy người nữ liền sinh lòng dục, tìm cách hành dâm với người đó. Thậm chí trong mơ cũng niệm niệm dâm dục, tỉnh dậy nhớ lại không nguôi. Rồi viết lại thành sách, bí mật truyền cho đệ tử, đến đời sau mới bắt đầu công khai. Như thế mà nói họ vô dục ư? Lời họ nói liệu có đáng tin hay không?

Các Lạt Ma mạo danh Đa La Na Tha, thậm chí trong mơ cũng không dứt ý niệm hành dâm:

“…Về sau các Không Hành hải quán đỉnh, mơ đến một tòa bảo sơn, vô cùng hiếm lạ. Bốn mặt núi đều có ba vùng, những nơi đó có rất nhiều thiên nhân, người, gia súc, phần lớn đều là âm tính (giống cái). Trong ý tưởng (khi trong lòng đang suy đoán) thì nghe thấy Kim Cương A xà lê Tri Bất Ba nói: ‘những người nữ nơi này của ta đều để giành cho người. Trong đó có 16 diệu nữ, cho ngươi muốn làm gì thì làm, làm không trái đạo, ngươi cứ làm’. Tôi tuân lệnh, lấy súc sinh nữ, Ba La nữ, tượng nhân nữ, Hợi (trư) nữ, Tuất (cẩu) nữ, bạch tước nữ, dâm hành rõ rệt, cảm nhận các khoái lạc khác nhau (lĩnh thụ các loại dâm lạc khác nhau). Những người nữ đó có đầu súc sinh nhưng lại có thân người, cũng thật thú vị.

Sau đó, khi thỉnh Các Ba Phái Hỷ Kim Cương quán đỉnh tu gia trì, mơ thấy giao hợp với nữ chủ 15 thôn (mơ mình lần lượt giao hợp với nữ chủ nhân của 15 làng), xong việc lại giao hợp với riêng 10 sử nữ của mỗi người (sau khi kết thúc lại tiếp tục giao hợp với 10 hầu gái của mỗi vị nữ chủ nhân)… Không lâu sau, tôi thụ giới Tỳ kheo… Một năm sau, theo sự dạy bảo của thượng sư đại đức đại ân người Ấn Độ…, đêm thứ 23, trong 12 Đăng Ma (còn gọi là 12 Đan Ma, là 12 nữ thần của đất Tạng, chủ tôn Đa Kiệt Ngọc Đăng Ma) có một vị Ngọc Ấn Đa Cát Tô Lâu Ma đến chỗ thầy, nói trước kia từng cúng dường bằng ba Trí tuệ Không Hành, ba Sự nghiệp Không Hành, nay xin thầy hãy quán đỉnh Du già sĩ cho, sáng hôm sau sẽ lại cúng dường một Không Hành Mẫu Trí tuệ (Không Hành Mẫu tức là Minh Phi), đồng thời lại dẫn thêm một Không Hành Mẫu Sự nghiệp đến (Không Hành Mẫu Sự nghiệp là Minh Phi nguyện cùng người nam hợp tu Song thân pháp).

Hôm sau, thầy liền thu xếp bày đặt đàn thành trang nghiêm. Lại qua một ngày, tức ngày 25, thầy nhập Vô lượng quang định ở trong màn. Tôi tu pháp Bản tôn ở ngoài màn. Lúc hoàng hôn, bỗng thấy ánh sáng lóe lên, là Ngọc Ấn dắt Sự nghiệp Thủ ấn đến (đem Không Hành Mẫu Sự nghiệp đến). Tôi vừa nhìn Sự Ấn, người nữ đó là quyến thuộc của Đả Lâu Gia Ba, thủ phương thần nữ đất Cổ Lỗ Đấu, biết nói hai thứ tiếng địa phương ở Bất Đan vùng Hậu Tạng, đeo đá thạch nhĩ ở tai, mặc áo sặc sỡ, tuổi chừng đôi tám đôi chín, thịt như đào, trán ửng đỏ, mắt nhuận long lanh, đuôi mày dài, xinh đẹp mê mẩn lòng người. Chủng tính, tính tướng liên hoa đều đầy đủ, thật xứng gọi là Kháp Na Bảo.

Thầy tôi quán đỉnh cho nàng, đến lúc giao phó (sau khi quán đỉnh thì trao người nữ đó cho tôi), chỉ thị quán tưởng rằng tôi thực sự nhìn thấy Dũng Phụ Không hành, bay nhảy khắp hư không, ai nấy đều thể hiện tham dục (dạy tôi rằng: quán tưởng mình thực sự nhìn thấy có Dũng Phụ và Không Hành Mẫu đang giao hợp, bay khắp các nơi trong không trung, hai bên đều thể hiện ra ham muốn dâm dục của mình). Tâm dâm của tôi cũng bùng cháy, bèn ôm lấy người nàng. Vừa mới cưỡi lên thân người nàng, cơ thể liền khoái lạc đê mê như bị tê liệt, không còn biết đau ngứa là gì nữa. Hết hôn lại mút, nàng cười rên, thở hổn hển, toàn thân run rẩy. Chùy tôi cương cứng, đút nhẹ vào liên hộ, nàng nảy lên như ngựa, sướng không thể biết. Thầy dạy đừng thâm nhập (sư phụ dặn dò tôi đừng đút sâu), bèn nâng lên trên (quán tưởng Minh điểm nâng lên trong Trung mạch), sau mới tiến sâu vào, khoái lạc gấp bội so với trước. Hai người chúng tôi đồng thời kêu rên khoái lạc, rồi đút thẳng vào trong. Tôi đâm chọc, nàng nảy rướn lên, giáng đề trì tán mỗi thứ chín lần (ý nghĩa của câu này sẽ được thuật giải chi tiết trong Chương chín), làm như không có chuyện gì xảy ra. Nàng đạt được đại lạc, liên mạch (âm hộ) như cá thổi bọt sóng, tâm nhảy lên khởi mặt nước gợn đi gợn lại. Khi tiếp xúc với chùy, tức thì run bắn, phát ra tiếng đỗ quyên. Thân tôi cũng không còn như lúc bình thường, cảm thấy sướng run không chịu nổi, cũng tự phát ra các âm thanh hoan hỷ. Khi đó, nhụy sen và chùy mạch khế hợp thật sâu, liền có thể nhìn thấy Bản tôn tướng. Thầy huấn thị rằng (khi đến lúc đó, sư phụ dạy tại chỗ rằng): ‘người nữ mà ngươi cưỡi có thể kết giao với Tâm người (người nữ đang cùng hành dâm với ngươi có thể kết nối với Tâm của ngươi), những việc hành dâm, tứ thể tính Không Lạc đạt được, người cần tăng cường quan sát. Nếu không có gì nhìn thấy, lại không phải là một vật nào, tự nhiên sẽ hiển hiện bất diệt. Người kia cũng không diệt, cần khéo quan sát Đại Lạc, thản nhiên lộ rõ’. Khẩu quyết này của thầy tôi, ngang với Đại ấn (tức như “Không Lạc Đại thủ ấn”). Tôi may mắn có được thể nghiệm chân thực. Sau đó thì cúng dường bề trên, thầy và tôi thấy trán nàng có hình chuyển động vui sướng hiển hiện, Dũng sĩ Không hành đến nhận cúng dường rồi. Thầy hát bài chỉ thị, tôi hát bài cảm nhận, nàng hát bài cúng dường Bất Đan.

Nửa đêm, thầy sắp đi ngủ, cầm tay tôi cáo từ rằng: ‘Ngươi kiếp trước phát nguyện, nay đã thành tựu rồi. Ta sẽ niệm bài tụng cát tường cho ngươi’. Nói xong, hiện sắc mặt vô cùng vui vẻ. Tụng xong, bèn vào phòng ngủ. Tôi và nàng ấy lại khế nhập Đại thủ ấn Lạc Không bất nhị thâu đêm (tôi và người nữ hành dâm cả đêm để khế nhập vào Đại thủ ấn “Không Lạc bất nhị”). Người hầu nữ của Không hành Sự nghiệp đem rượu đến, hai bên cùng uống hết. Hai chúng tôi vẫn chưa ngủ say, mập mờ vẫn nhìn thấy trong hư không, Không hành và Dũng Phụ hôn nhau ve vuốt, nghịch liên (sờ vuốt nữ âm), hoạt thung (nghịch nam dương cho cứng lên); hoặc lại trụ vào trong Không Lạc bất động (hoặc cùng trụ trong cực khoái tình dục để thể nghiệm cái Không của lạc xúc mà nhất tâm thụ lạc, thân thể không dao động), như si như say; hoặc có lúc rút chọc, có thanh có sắc; hoặc có lúc khóc lúc cười, hổn hển rên rỉ, tiếng kêu như cái đỉnh sôi sùng sục. Hai chúng tôi cùng vuốt ve nhau, cùng cháy lên dục hỏa, hành sự cả đêm không ngừng nghỉ.

Sáng hôm sau, trong Tịch tĩnh viên quang màu làm bên vai phải tôi có tiếng nói: ‘Không khế tham đạo không thành Phật, nếu đắc Phật ta trái lời thề’. Trong Tịch tĩnh viên quang màu đỏ bên vai trái có tiếng nói rằng: ‘Không nhập liên hoa không tịnh tham (người không nhập vào trong nữ âm hành Song thân pháp thì không thể tịnh trừ tham dục), nếu tịnh tham ta trái lời thề (nếu người nào mà không nhập vào trong nữ âm hành Song thân pháp mà có thể tịnh trừ được tham dục thì ta sẽ làm trái lời thề)’. Tôi vì thế mà cùng nàng giao hợp, thư thái mà trì giữ Minh điểm (dùng pháp thư giãn để bế tinh không xuất), khoái lạc đầu chùy lan dần khắp toàn thân, tiếp đó thư thái mà đến, không thêm ý trì cũng không xuất lậu. Nàng nữ đạt được đại lạc (cực khoái tình dục), liên mạch còn dài ra phía trước.

Cho đến ngày 27, liên tục hai ngày đêm, không rời bảo tòa Song thân pháp một sát na nào, cũng không hề tiểu tiện, đôi khi cũng rỏ ra vài giọt thì cùng nhau uống đi. Trọc phần chảy ra (Trọc phần của Minh điểm, tức tinh dịch xuất ra âm hộ), thì chùy liên dính chặt lấy nhau. Tôi còn hôn nhụy hoa (âm vật) của nàng, mùi vị thật tuyệt, hai bên đều sinh khoái cảm.

Lúc trời sáng có ánh nắng, thì tìm mạch Hải Loa của nàng. Nó có hình dạng như đầu vú, như hạt đậu xanh có hai cái rễ, một cái như cái gai, đầu chót có màu trắng; một cái có bốn màu, dài chừng bốn đốt ngón tay, tâm hoa màu hồng nhạt, hình giống cái mũi lõm, hiện ra hoa văn hình năm cái chày. Mạch đến lỗ chùy giao hội (đưa mạch Hải Loa của người nữ đút vào trong lỗ đầu chùy mà giao hợp), khoái lạc tăng lên đến ba trăm lần. Lúc không đề (nếu khi không nâng tịnh phần của tinh dịch), chùy trụ trong liên cung, cũng cứng lớn hơn trước, đầu chùy sáng láng bóng bảy, lỗ thật tròn mà phát quang bắn lên trên. Nàng ấy nói: ‘Đó là hiện tướng khi Minh điểm này không nâng không xuất’. Sau đó thì nâng lên, chùy ngắn nhỏ lại và mềm, cảm thấy tất cả đều thu nhiếp hết. Khi thăng lên đến các luân, khoái lạc càng lớn. Đến Đỉnh luân thì thấy toàn thân như lột da, phát tán khắp toàn thân. Lạc, Minh, Vô niệm đồng thời hiện khởi, nhẹ nhõm thoải mái có hay không cũng không cần biết, cơn khoái lạc cực kỳ nồng hậu, tất thảy mọi phân biệt đều ngưng đọng, đó là do Phong lực gây ra.

Nàng ấy dạy tôi rằng: ‘Chùy đặt ở liên cung, trì, đề, tán, ba thứ này phải dùng tâm nhiếp trì, không dùng Phong cũng được’. Sau đó tôi làm theo, không cần Phong đó tầm mạch (không còn điên cuồng ở mạch Hải Loa trong hạ thể cô ấy nữa). Vì thường xuyên đâm vào rút ra, nên đường chùy rất ngứa, như nước cháy, tâm nhiếp đến ngực, chất dịch chảy xuống đệm, kèm theo tiếng cười.

Ban ngày, thày tôi thường đến xem, không đến ba ngày, uống rượu đến bốn đấu lớn mà không hề say. Đêm cũng không cần ngủ, chùy liên vẫn vào ra đôi chút.

Đến tảng sáng hôm ấy, bậc đại thành tựu Lỗ Ba đến bên gối nói: ‘Ta chính là hóa thân của Thắng Lạc Kim Cương’. Nói xong, tôi thấy trên đỉnh đầu ngài bốn mặt có Bản tôn 12 cánh tay ôm lấy Phật Mẫu. Thày Lỗ dạy tôi rằng: ‘Mạch luân chỗ Mật xứ (chỗ kín) của nam nữ tức là nơi trú của Thắng Lạc phụ mẫu, sinh ra Sự nghiệp Thủ ấn, Pháp Thủ ấn, Trí tuệ Thủ ấn, đều là thân ảo hóa. Bản thể là Đại Lạc, tất thảy chúng sinh hữu tình phải dựa vào người khác giới mà ngự (vận hành), Du già sĩ phải dựa vào Tam ấn này mà vận hành, Phật quả thì dựa vào pháp nhĩ, tâm an lạc thì thân tự có Phật Mẫu mà ngự. Phải hiểu rõ rằng đó là do Tâm hiển hiện, cần phải sinh lòng quyết định ở đây’. Tôi lắng nghe lời dạy mà lòng hân hoan, lại cùng nàng vui vầy tiếp.

Đêm đó, thày cúng dường bề trên, bố thí đồ ăn xong, tôi ở trong màn hầu thầy niệm tu, bỗng nhiên nghe tiếng leng keng vọng tới, hóa ra là người đưa Sự nghiệp Thủ ấn Minh Phi đến, trong sát na hóa thành điện quang mà đi. Sau đó kéo dài đến hai tháng, khoái lạc của tôi ngày càng tăng trưởng.

Năm sau lại ngồi tĩnh tọa ở chân núi Kháp Nhạ, gần đó có nhà Sắc Lạp Ngưu Hán, con gái ông ta thịt đỏ au, đến cúng dường sữa bò cho tôi. Uống xong, cơ thể khoan khoái, nhìn thấy Thích Ca dưới tướng xuất gia, ôm Phật Mẫu đến (đây là do quỷ thần biến hiện ra, người học chớ có tin là thật). Tôi từng ở đất đó thuyết pháp, cảm nhận qua ngày. Sau khi thuyết pháp ba ngày, chuyển đến sống trong động đá bên phải núi. Người con gái trước kia và đám bạn gái của cô ấy đưa bơ đến. Người đông thì duyên khởi không khéo lắm, chỉ được ngắm trộm mà thôi. Đến lúc hoàng hôn, cô gái ấy ngày càng đến sát người, tôi phần lớn không nhìn rõ, nhưng được mò trộm liên hoa nàng (có thể sờ trộm âm hộ cô ấy), hôn nhẹ má nàng. Lúc nàng về, Mẫu đơn (máu kinh nguyệt) chảy ra còn ướt cả bồ đoàn (tấm đệm ngồi tu tập), tôi không chút nghi ngờ, phủ phục xuống đất mà liếm hết, lạc khoái bùng lên, quả thật không phải là không có diệu duyên đâu.

Mấy ngày sau, tôi gặp chủng tính Không hành Da Na Ban Tẩu, có lẽ là do cảm ứng của nguyện lực đời trước của tôi. Cô ấy từng ở với tôi hai tháng (sống chung và hành dâm trong hai tháng), tham lạc vẫn chưa lan khắp (dâm lạc vẫn chưa đạt đến trình độ lan khắp toàn thân). Nay đã lan khắp rồi, chứng ngộ cũng gấp nhiều lần trước, tôi đã ghi chép lại chi tiết trong sách khác rồi. Sau này lại đến các vùng Nhiêu Trinh, Lâu…, tướng thành tựu tuy đã có nhưng nhân duyên chưa hợp. Những thứ gây chướng ngại cho tôi kia chuyển sang chướng ngại tự thân, thật vô cùng đáng tiếc.

Khi qua vùng Di Hỷ Võng Ba, thụ tứ viên quán đỉnh của Ô Kim, trí tuệ ngày càng tăng trưởng. Những duyên không hợp (trước kia), cũng dần dần tương hợp. Vài ngày sau thì đến sống ở Đa Đô, có Không Hành Mẫu Cụ Cốt Sức bưng đồ ăn đầy đến (mang đồ ăn sau khi cúng “Phật” trong Mật đàn) cúng cho tôi. Trong ánh sáng trăng, nhìn thấy La Sát nữ đáng sợ, ngực nứt ra, bên trong hiện ra một cái chùa. Trong chùa, Không Hành Mẫu Vương Tang Di Hỷ khỏa thân cầm trống, thiên linh cái, dựa vào Kháp Trương Gia, các quyến thuộc của Dũng nữ rất nhiều, làm Mật quán cho tôi, tu quán Tự tại đỉnh. Trong đám quyến thuộc có một người nữ trẻ đẹp tuyệt trần, điên cuồng hôn tôi, ôm ghì chặt, từ chùy đến đỉnh, trên dưới an lạc (từ dương vật đến đỉnh đầu, thượng hạ đều sinh hỷ lạc), hơi thở yếu ớt, kim cương (chùy) khế nhập liên tâm, chứng được Vô phân biệt định (chứng được thiền định nhất tâm bất loạn, không khởi phân biệt vọng tưởng). Tâm quan sát bản thể, tự nhiên thấy trong Vô phân biệt định này đắc Đại Lạc. Sau đó, với mỗi quyến thuộc già trẻ đều hành một trận xuân phong (sau khi đắc cực lạc thì giao hợp một lượt với từng quyến thuộc già trẻ của Không Hành Mẫu). Tang Ngõa Di Hỷ ở bên dạy bảo từng pháp tham đạo đại thanh tịnh.

Hai năm sau, mùa hè đến sống ở Đinh Cát, gặp Căn bản sư (thày đầu tiên), thụ “Cấm trụ hành” với Nhân Thân Võng Bản. Mở “Quảng quán đỉnh”, uống 12 bát rượu gạo, trong cảnh giới đó nhìn thấy các bậc đại thành tựu của Ấn Độ. Ban ngày hành ba lần, ban đêm không cần đi tiểu, nhờ sức gia trì của quán đỉnh mà Đại Lạc kéo dài đến nửa tháng vẫn chưa dứt.

Nhớ lại lúc 18 tuổi thụ giới Tỳ kheo, trong 5 năm liền không sinh lòng hoan hỷ với bậc cân quắc (chỉ nữ giới), không phải là đồng nữ thiếu nữ chưa từng nếm trải như gió xuân bị đào mận cười cợt, đến ý nghĩ thủ dâm cũng chưa từng có. Sau khi được Không Hành Mẫu Di Hỷ Tha Gia thọ ký, ‘đến thẳng luân hồi chưa phải là Không, thường nên lấy tham đạo là chủ đạo’, bản thân và người ta đều được dạy bảo như vậy. Khi giao (hợp) một lần với Sự Ấn (Sự nghiệp Thủ ấn – tức là pháp hợp tu song thân), thì sẽ tăng trưởng thêm một lần trí tuệ, cho nên nguyện trước khi chúng sinh còn chưa độ hết, thường nên dốc sức vào tu đạo này… (Còn có nhiều nội dung ghi chép pháp hợp tu song thân nữa, nhưng vì dạy hành dâm quá sâu nên tạm lược bỏ, không trích dẫn nữa)…

Lúc 37 tuổi, (tôi) đến Kỷ Bất Đạt Đoan tĩnh tọa, mơ tạp hợp với Thanh tịnh Quang minh, cảm thấy thân thịt này không phải là Ý sinh thân tầm thường, thực sự đến được nước Hương Ba La, vào “điện Chiến Ba La”, ngồi trên đó, nhìn thấy một cung điện khác có Minh Phi và cung nga du hý. Cung điện làm bằng châu báu, treo thêm san hô, hổ phách làm anh lạc (chuỗi đeo), ở giữa có điểm xuyết thủy thú, có lúc vẽ vằn hổ, dây màu hồng ngọc, cát vàng trải đất, châu báu phóng quang, không phân chia ngày đêm. Lại có hồng đàn làm chấn song, san hô cửa sổ, lưu ly thấu quang, lụa là gấm vóc, có tòa sư tử, cẩm tú làm đệm, bốn viền bảo tọa có điểm xuyết trân bảo, ngũ quang thập sắc không thể nhìn thẳng được. Trên đệm gấm lại có nhung lụa lót làm chỗ nằm, trên có thêu chim hoa. Trên nệm giường lại có đệm lưng, như rồng bay phượng múa, đường nét khâu không giống với nữ công ở thế gian. Đệm chân dưới tòa có hoa tươi rực rỡ như thật, nhiều đến mức cho lấy thỏa thích. Quốc vương Hương Ba La tên là Điệm Đăng Ba Quân, tướng đẹp trang nghiêm, dáng người vừa phải, tuổi đã ngoài trăm, tướng mạo tựa nhi đồng, quần áo cũng cực kỳ sang đẹp, thêu đủ rồng bay phượng múa, đội mũ miện châu ngọc, cùng các phi tử nghịch đồ châu báu, hôn má mặt lúm đồng tiền họ.

Các quyến thuộc đó cũng có tình yêu đồng tính, thấy vương và phi hai người ngồi trên đó, những người đồng tính bên cạnh rủ rỉ các loại tham đạo, thế là hỗ trợ các tư thế dâm hành. Tham tâm của vương và phi cùng nổi lên, phi cởi áo, vương cởi ngọc bội, kim cương (nam căn) hùng dũng, liên hoa (nữ căn) phong nhuận, tiếng cười hoan hỷ, tiếng nhấp dính cũng vang lên. Tôi bèn dùng Ý sinh thân co lại như con ốc sên, chui vài giữa chày liên của vương và phi, mục kích xem chùy đâm vào trong liên hoa, vương trụ trong đại lạc bất động.

Lát sau hai người điên loan đảo phượng, đâm chọc liên hồi, chày càng cứng sức càng dai, Minh điểm lại xuất. Cứ như thế ba bốn lần, dâm thủy suối liên và Minh điểm hòa trộn vào nhau, như sữa hòa vào nước, tẩm ướt khắp cánh sen, tràn cả ra ngoài. Âm mao cũng tựa như cỏ đẫm nước sương, sáng láng đáng yêu. Tôi sướng quá từ giấc mơ bừng tỉnh (hóa ra chỉ là một giấc mơ hoang đường, lấy đâu ra Ý sinh thân?). Sau đó vài ngày, lạc dục âm ỉ không nguôi, so với các tướng đã từng thấy trước kia, khoái lạc còn cao gấp trăm lần. Tôi đã viết riêng thành sách khác, ở đây không nói thừa nữa (đoạn văn này không cho phê chú, hành giả tự suy nghĩ)”. (34-612~624)

Các Lạt Ma mạo danh Đa La Na Tha như thế, đâu chỉ có lúc tỉnh nhìn thấy người nữ yêu kiều xinh đẹp mới khởi tâm tham dục, mà ngay cả trong giấc mơ cũng tham cái đạo này, thậm chí còn sinh lòng tham dục với cả súc sinh nữ (động vật giống cái thân người đầu súc sinh) nữa. Quan sát cái lạc của họ, tất thảy đều là dâm xúc (tiếp xúc dâm dục sinh khoái lạc) cả. Tham cứu đến cái gọi là “ngộ” của họ, đều không gì ngoài sự cảm nhận Tứ hỷ trong dâm lạc. Sau đó họ quan sát dâm lạc không có hình, không có sắc nên gọi là “phi hữu”; lại quan sát thứ dâm lạc đó quả thực có sinh lạc thụ (khoái lạc tình dục) nên gọi là “phi vô”. Như thế gọi là “phi hữu phi vô” trong dâm lạc mà thành tựu “Trung Quán đạo”. Họ lại quan sát Tâm giác tri ở trong cảnh giới lạc thụ đó, nhận định rằng lạc xúc này là do Tâm giác tri sinh ra, thế nhưng vì Tâm giác tri và lạc xúc đều không có hình sắc vật chất, cho nên họ nói rằng lạc xúc và Tâm giác tri đều là “Không” tính. Tiếp đến, lại quan sát thấy Tâm giác tri và lạc xúc này đều không khác Không tính (Vì nó vô hình sắc nên là Không, chứ không phải là chứng được Thức thứ tám Không tính trong Hiển giáo. Lại ngộ nhận Tướng phần của lạc thụ và xúc trần do Tâm giác tri sinh ra, cho nên cho rằng cảm nhận lạc xúc và Tâm giác tri không khác nhau, đều là một), cho nên “Tâm giác tri Không tính” và “Lạc xúc Không tính” bất nhị (không hai không khác), gọi là “Lạc Không bất nhị”. Mật tông cho rằng người có thể chứng ngộ được điều này là đã thành tựu Phật Cứu Cánh trong Mật tông, gọi là pháp môn tức thân thành Phật.

Lạt Ma Mật tông nhờ có sự tu chứng kiểu này mà trở thành nhà đại tu hành trong Mật tông. Vì thế, trong tất cả các thời (mọi lúc), hễ họ nhìn thấy người nữ có dung mạo xinh đẹp vừa ý là lập tức nổi dâm ý mà tìm cách giao hợp với cô ta, tu hành Song thân pháp. Việc không rời tham dâm bất cứ lúc nào như thế, thậm chí trong giấc ngủ cũng thường mơ hành dâm với người nữ, vọng tưởng dâm uế đến mức độ như vậy, thế mà bản thân họ cũng không nhận ra sự hoang đường này, trong nhân sinh đại mộng lại tiếp tục nằm mơ trong giấc mơ, lấy đó làm tự đắc, lại còn mạo danh Pháp vương phái Giác Nãng Ba viết thành sách bí mật, coi đó là khẩu quyết để truyền cho hậu thế. Với cách làm khẩu quyết như vậy, Mật tông đã bắn một mũi tên trúng hai đích: Một là có thể vu oan cho “Đa La Na Tha - Pháp vương phái Giác Nãng Ba - người luôn tẩy chay Song thân pháp và Trung Quán phái Ứng Thành, đến chết cũng không thay đổi”; hai là có thể tiếp tục thực truyền Song thân pháp của tứ đại phái. Thế nhưng, qua những đoạn văn trên, có thể chứng minh rõ ràng về sự tham dâm vô độ của các Lạt Ma Mật tông, thì sao có thể nói các Lạt Ma Mật tông là những người lìa tham được? Cho nên, xướng ngôn “lấy tham chặn tham” của Mật tông tiến thoái đều vô căn cứ, thực chất chỉ là những lời lẽ ngụy trang cho tà kiến và tham dục mà thôi, đó là tà pháp do tà ma sinh trong nhân gian truyền bá dùng để dẫn dắt người học đi lầm đường lạc lối vào tà đạo, hòng ngăn chặn sự hoằng truyền của chính đạo Phật pháp.

Lại nữa, chư Phật ba đời sau khi độ cho người Thanh Văn thành tựu đạo Giải Thoát thì các vị La Hán kia nhất định đều phải vĩnh viễn lìa xa nữ sắc, mãi mãi đoạn trừ tham ái và dâm dục đối với người khác giới, huống hồ là bậc lưỡng túc tôn đã chứng được Phật Bồ Đề viên mãn, sau khi thành Phật sao lại còn có thể trang nghiêm Báo thân bằng hình tướng song thân ôm người nữ giao hợp hưởng thụ dâm lạc? Tà kiến của hành giả Mật tông hoang đường đến mức độ này, thế mà không có ai tự nhận biết được sai lầm nghiêm trọng đó, còn vọng ngôn nói rằng: “Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật của Phật Thích Ca truyền thụ pháp tu song thân và Mật tông trong “kinh Đại Nhật” giúp hành giả Mật tông có thể tức thân thành Phật”. Những lời hư giả đó quái đản vô cùng, quả thật là phỉ báng chư Phật.

Lại nữa, bậc “Bồ Tát cửu học[1]” sau khi tự mình chứng ngộ, từng bước tiến tu Biệt tướng trí và Nhất thiết Chủng trí của Bát Nhã, cũng tất phải dần dần đoạn trừ tham dục nhân gian trong tứ uy nghi của mình, thì tại sao Mật tông lại dạy tứ chúng đệ tử hành tham dục? Đến mức thượng sư Lạt Ma cũng thường lạc hành đạo này trong cả giấc mơ? Tôi đã hiện thân cư sĩ đời thứ hai rồi, nhưng sau khi chứng ngộ ở đời này cũng không còn nằm mơ chuyện dâm dục nữa, (đến nay đã mười hai năm, tâm thường cảnh giác chuyện nữ dục như rắn rết. Tất cả nữ chúng sau khi chứng ngộ cũng nên cảnh giác như thế: “chuyện nam dục tựa như rắn rết”.

Bậc Bồ Tát Đẳng giác cố nhiên cũng từng thị hiện có vợ con đề huề, nhưng đó chỉ là một hình thức báo đáp nhân duyên, đồng thời thể hiện quyến thuộc viên mãn, chúng duyên đầy đủ, cũng chứng tỏ rằng họ không phải là loại người hoàng môn nhị căn, mà có đủ tướng kim cương của người nam mà thôi – thị hiện mình có đủ năng lực tình dục nhưng ly dục thực sự, tâm hoàn toàn không còn có tà tham, thậm chí đến cả vợ cũng không có tham trước, chứ không phải là vì tâm có tham dục mà lấy vợ sinh con. Bồ Tát còn như thế, huống hồ là chư Phật thanh tịnh hoàn toàn, là những bậc toàn giác đã đoạn trừ sạch tận nhị chướng tùy miên của tất thảy chủng tử, sao có thể lại vì Mật tông mà truyền pháp trái ngược với đạo Giải Thoát? Sao lại có thể truyền pháp tu dâm lạc hoàn toàn trái ngược với tôn chỉ của đạo Phật Bồ Đề? Sao có thể lấy tướng song thân ôm người nữ giao hợp thường trụ dâm lạc để làm quả báo chân thực cho Báo thân trang nghiêm của mình? Tuyệt đối không thể có lý đó! Cho nên, thuyết “lấy dục chế dục” của các tổ sư Mật tông đều là tà thuyết hoang đường, tuyệt đối không thể tin được. Các loại tà kiến nói trong “Kinh, Tục” của Mật tông đều trái ngược với đạo Giải Thoát và đạo Phật Bồ Đề, những nội dung họ nói đều hoàn toàn không liên quan gì đến Phật pháp, thì sao có thể nói đó là Phật pháp được? Thì sao pháp sư Ấn Thuận lại có thể kiên định chủ trương rằng “Mật tông là một tông phái của Phật giáo” được? Đó thực chất chỉ là “ngoại đạo đội lốt Phật giáo” để thực truyền pháp ngoại đạo, về bản chất tuyệt đối không phải là Phật giáo.

 

 

 


[1] Chú thích của người dịch: “Bồ Tát cửu học” là chỉ Bồ Tát đã tu học nhiều đời nhiều kiếp.

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 31497


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg