The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 6: Hiểu sai về Tứ duyên của Mật tông

 Tiết 6: Hiểu sai về Tứ duyên của Mật tông

Tứ duyên mà Mật tông nói ở đây cũng trái với lời Phật dạy, hoàn toàn là dụng tâm trên pháp thường kiến ngoại đạo của Mật tông. Ví dụ trong cuốn “Đại thủ ấn giáo thụ quyết vi” có nói rằng: “Luận rằng: Cái Tứ duyên tu tập Đại thủ ấn, liễu đạt luân hồi khổ, quyết tâm xuất ly, chuyên tu đại ấn làm nhân duyên (1). Thượng sư có thể gia trì cho hành giả, dạy cho anh ta biết được kinh nghiệm của bản thân thày, có thể khiến cho hành giả khai ngộ, cho nên tu tập tăng thượng duyên của đại ấn (2). Hành giả liễu đạt tất thảy vô minh, phân biệt, phiền não…đều là Pháp thân, có thể giữ lấy làm đạo tu tập đại ấn, đó gọi là duyên duyên (3). Hành trì tất cả, không lìa khỏi tất cả những thứ hiển hiện trên Pháp thân này, còn đại ấn không có chỗ dựa, không có bảo hộ này, tất cả những gì thực hiện, bất cứ thời gian nào cũng không tương ứng, đó là đẳng vô gián duyên (4). Tất thảy Tứ duyên đều lấy sự gia trì của thượng sư làm chủ duyên. Còn Thượng sư căn bản, tức là vị thượng sư có thể giúp cho hành giả đốn kiến Minh thể. Thượng sư Kim Cương là chỉ người được cái duyên câu sinh có thể cảm chiêu, dẫn đến thày trò đồng thể, mãi mãi không phân ly, như Kim Cương kia, không bị cái khác phá hoại. Còn cái gọi là Du già (yoga) chính là lấy bản thể Pháp giới, thượng sư gia trì và đệ tử vì được gia trì mà thấy Minh thể, ba thứ vốn dĩ đồng thể, vốn dĩ tương ứng, cho nên gọi là Du già. Đó chính là nghĩa lý của việc tu thượng sư tương ứng pháp mà được thông đại ấn” (34-843).

Nên biết rằng cái Tứ duyên này chính là pháp tương ứng bên trong Bát thức Tâm vương nói ở trong Nhất thiết Chủng trí, không liên quan gì đến ngoại pháp. Nay Mật tông đem Tứ duyên này nói thành Tứ duyên tu học Lạc Không song vận Đại thủ ấn giữa thượng sư và đệ tử, thật đúng là những lời lẽ điên đảo, chẳng ra làm sao. Vì sao vậy? Vì tứ duyên này là Tâm hành hiển hiện giữa Bát thức Tâm vương, chẳng có dính dáng gì đến quan hệ giữa thượng sư và đệ tử cả. Mật tông lại nói Tứ duyên này lấy sự gia trì của thượng sư làm chủ duyên…, thật đúng là những lời lẽ dẫn dắt sai lầm cho chúng sinh. Việc lấy ngoại đạo pháp thay thế cho chính pháp của Phật như thế chính là một thủ đoạn thường dùng của Mật giáo vậy.

Lại nữa, câu “thày trò đồng thể, mãi mãi không phân ly, như Kim Cương kia” của Mật tông mắc sai lầm lớn: Như thế có nghĩa là bản thể sinh mệnh của chúng sinh hữu tình và (bản thể) trước khi tu học Phật pháp đã từng bị chia cắt, nay vì tu học Mật pháp nên mới khôi phục thành “thày trò đồng thể”, mới cho rằng Báo thân Phật chính là tượng song thân ôm nhau với “Mẫu Phật”, thì sau khi đệ tử và thượng sư hợp tu Song thân pháp, linh thể của anh ta vì giao hợp với thượng sư nên mới thành một Minh thể pháp giới, cho nên mới cần phải đem Minh thể của mình chui qua hạ thể để vận nhập vào trong thân của thượng sư khác giới, kết hợp với thượng sư để hoàn thành sự tu chứng Song thân pháp, sau này khi thành Phật sẽ mãi mãi không phân ly với thượng sư khác giới, như hình dạng Kim Cương tát đỏa kia cùng Phật Mẫu ôm nhau giao hợp thụ lạc để mãi mãi không chia lìa. Nếu quả thực là như thế, thì nghĩa là Minh thể pháp giới là thứ có thể chia cắt, sau này cũng có thể hợp nhất thành một, mãi mãi không phân ly như Kim Cương kia. Nhưng thứ tà kiến này lại khác xa với những gì Phật nói, thì sao có thể nói đó là pháp môn tu hành của Phật giáo được? Thượng sư Mật tông thì lại viện vào lý do này để khuyến khích đệ tử khác giới thường xuyên giao hợp với mình, để cầu mong thành tựu “Phật đạo”.

Lại nữa, trong cuốn “Thậm thâm nội nghĩa”, Nhượng Tưởng Đa Kiệt nói:

“Về Tứ duyên, tụng nói rằng: Ở chỗ A Lại Da tập khí đó, nhân duyên đều tập nhiếp ở đây, giữa hiển hiện tăng thượng duyên. Do nhãn căn đạt đến chỗ thức, cái duyên duyên là sắc trần, hiển hiện trong cảnh nên hiểu rõ. Còn cái gọi là vô gián duyên, từng cái diệt rồi sinh không ngừng, ý thức thứ sáu thường hiện khởi.

Thứ nhất, các tập khí nhân duyên đều tập nhiếp ở A Lại Da thức, tất thảy chủng tử thuật giảng trước đây đều có nhân duyên ở chỗ này, nếu không có cái này thì không có nhân duyên. Nhân của tất thảy hữu tình khác cũng giống như ví dụ này vậy. Như “Nhiếp Đại thừa luận” nói: ‘A Lại Da thức, như dương diệm[1], như ảo, như ế (màng mắt-bệnh vảy mắt)”. Cho nên, nếu không có thức này nhận trì, thì các Nhân điên đảo (của) chủng tử phân biệt phi chính đều không có đâu. Tất phải có A Lại Da thức, như đã nói ở trên.

Thứ hai, nói về tăng thượng duyên, tụng rằng: hiển hiện tăng thượng duyên ở bên trong, do các căn như nhãn căn đạt đến thức. Cái tăng thượng duyên có từ lục thức, ở giữa hiển hiện ngũ căn và thức căn: Nhãn căn như quả nho, tai như lá non cuộn lại, mũi như hai vuốt rủ, lưỡi như vành trăng non, thân như cái trống thắt eo, đều là tịnh sắc căn. Cái gọi là sắc, được sinh ra từ cái nhân tứ đại, cái tịnh và thức liên quan đến nhau, lại rất rõ rệt, vì nội chủng tử thành công năng và tương liên, do A Lại Da thức nhiếp trì, hiển hiện cái nghĩa lý của ngũ căn không trái ngược. Về Ý căn, nó sinh diệt trong A Lại Da thức không ngừng nghỉ, lại nhiếp trì không ngừng lục thức, còn có cách gọi khác là Ý giới. Lại có công năng của Thức thứ tám phân ra, có thể khai mở cửa sinh Ý thức, là thuộc về loại xứ. Cái gọi là pháp xứ, có pháp xứ hữu vi và pháp xứ vô vi, từ ý và pháp đó, tức sinh ra duyên khởi từ trong tâm và cảnh.

Thứ ba, cái duyên duyên tức là sắc…, trong cảnh hiển hiện sắc thanh hương vị xúc, pháp hữu vi và pháp vô vi cũng là nó. Cái sắc là do tứ đại chủng hoặc đại chủng tạo ra, phàm những hành cảnh của mắt, chính là hiển sắc, hình sắc. Thanh âm là hành cảnh của tai, sinh ra từ chấp thụ và vô chấp thụ chủng. Cái hương là hành cảnh của mũi, gồm hương thơm, mùi thối và các mùi khác. Cái vị là hành cảnh của lưỡi, gồm sáu vị. Cái xúc là hành cảnh của thân, như nặng nhẹ, mềm thô, hàn nhiệt, đói khát. Về pháp, gồm pháp hữu vi và pháp có lúc hiển hiện, sinh ra từ hữu biểu. Pháp sở thủ, pháp tự tại viên mãn, pháp biến kế, thụ tưởng tư vân vân. Còn về pháp vô vi là chỉ lục diệt và Không Chân Như, tên khác của chúng có tám loại. Lược nhiếp đến, thì là tất cả cảnh được liễu tri (hiểu biết).

Thứ tư, về đẳng vô gián duyên, tụng nói rằng: từng cái diệt rồi sinh không ngừng. Bộ sai biệt Thanh văn thừa cho là lục thức, sau khi từng cái diệt, nó là cái duyên vô gián, tuy nhiên nó không nhất định lấy diệt làm duyên. “Giải thâm mật kinh” nói: Sáu thức đầu diệt rồi. Cái Ý giới này và vô gián ý nói là một, từ đây truyền Thức thứ tám vô gián ý, trong tất cả tám thức, như sóng và nước, dựa vào A Lại Da thức mà dao động, sinh ra vô gián duyên, như đã thuật ở trên. Cái duyên sáu thức đầu, nếu sinh ra một thứ, thì vô gián duyên cũng sinh ra một thứ; nếu sinh ra nhiều thì cũng sinh nhiều, giống như số lượt đó. Cái sự diệt của nó, là chỉ khi sáu thức đầu diệt, làm vô gián hậu duyên nối sát nhau, cho nên gọi là vô gián. Cho nên nói nó sinh ra vô gián (không ngừng nghỉ gián đoạn), cũng không trái ngược nhau. Tam thập tụng nói: Ngũ và căn bản thức, ngũ thức sinh ra thế nào, cùng sinh hoặc không sinh với thức. Căn bản thức là A Lại Da thức, ngũ thức và tam duyên sinh ra đầy đủ với nhau, cái lý cùng sinh với thức nói ở đây tức là Thức thứ tám này, cũng được coi là tăng thượng duyên đó, cho nên sau khi vô gián ý sinh ra, thì có căn trần thức, thuyết này hoặc phi chính lý. Ý thức thứ sáu sinh ra thế nào? Tam thập tụng nói: ‘Cái sinh ra Ý thức, là dựa vào Căn bản thức, ngũ thức tùy duyên hiển hiện, hoặc có đầy đủ hoặc không có đầy đủ. Ý thức thường hiện khởi, ngoại trừ việc sinh lên Vô Tưởng thiên và hai định vô tâm, ngủ say và ngất xỉu’. Như trên đã nói: thức thứ sáu trong Ngũ thức tạm thời nhiếp ở A Lại Da thức, cho nên không hiển hiện, còn lại tất cả mọi lúc đều sinh ra. Ý thức thứ sáu mà bài tụng nói chính là chỉ thức này. Ý thức thứ sáu cũng có vô gián, dựa vào đẳng vô gián ý trong A Lại Da thức mà phân ra. Hoặc có thể nói Ý thức thứ sáu phân ra thì đồng với Ý thức thứ sáu. Sáu thức đầu nếu đứng về mặt quả vị mà nói, thì sinh ra cùng tam duyên có thể phù hợp với chính lý, như “Du già sư địa luận” nói: cái Tứ duyên là nói về nhân duyên, là do tâm sinh ra. Nếu nói về mặt thắng nghĩa, thì tất thảy khởi sinh từ duyên, thành lập mọi thuyết về nó, đều vậy mà thôi. Dẫn chứng như thế, rất nhiều nên dừng lại ở đây. Trên đây là hết phần giải thích về nhân duyên” (34-348~350) cũng như (46-28~30).

Giải thích về Tứ duyên như thế, chỗ nào cũng trái ngược với lời Phật dạy trong Tứ A Hàm, cũng trái ngược với ý Phật trong các kinh Đại thừa, đồng thời cũng trái ngược với ý chỉ trong các cuốn luận của chư Bồ Tát, không thể nêu ra từng cái một, nay chỉ tạm nêu ra những sai lầm lớn để nói thôi.

Về câu nói “Như ‘Nhiếp Đại thừa luận’ nói: ‘A Lại Da thức, như dương diệm, như ảo, như ế’” dẫn trong “Thậm thâm nội nghĩa” của Mật tông, nhưng trên thực tế thì trong “Nhiếp Đại thừa luận” không hề có câu này, mà chỉ có một câu tương tự: “Lại có thí dụ tướng: là nói A Lại Da thức, lấy ảo, diệm, mộng, ế làm ví dụ. Cái này nếu không có, vì từ chủng tử biến kế bất thực, cho nên điên đảo duyên tướng sẽ không đắc thành”. Ý là nói: A Lại Da thức có tàng chứa chính lý về chủng tử, lại có ví dụ tướng: là nói thể tính chủng tử được tàng chứa trong A Lại Da thức này, cho nên lấy các sự ảo hóa, dương diệm, mộng cảnh, như ế của Uẩn Xứ Giới làm ví dụ hình dung. A Lại Da thức này nếu không có, thì cái hiện tượng duyên tướng điên đảo (chấp trước rằng Uẩn Xứ Giới là thực có – ví dụ như cái tướng phan duyên điên đảo của Tông Khách Ba chấp trước Ý thức là thường trụ bất hoại ) từ chủng tử biến kế chấp bất thực mà sinh ra và những ngôn thuyết đều không thể được thành lập. Cho nên cái đạo lý trong câu “A Lại Da thức, lấy ảo, diệm, mộng, ế làm ví dụ” của “Nhiếp Đại thừa luận” là nói A Lại Da thức có thật, chứ không phải như Tông Khách Ba nói rằng: “A Lại Da thức, như dương diệm, như ảo, như ế”. Các thượng sư Mật tông không hiểu chân nghĩa, vọng ngôn giải thích, sinh ra hiểu lầm, lại còn viết luận di họa hiểu sai cho người đời sau, thật không nên chút nào.

Lại nữa, trong nội dung của “Nhiếp Đại thừa luận”, chỗ nào cũng chứng thực về cái lý “thực sự tồn tại A Lại Da thức”, chỗ nào cũng chứng minh cội nguồn của tất thảy pháp đều là A Lại Da thức: pháp thế xuất thế gian đều dựa vào A Lại Da thức này mà được sinh ra. Nếu không có A Lại Da thức này thì không thể có tất thảy pháp thế xuất thế gian. Nay Mật tông không chứng được A Lại Da thức, lại còn phủ định sự tồn tại của nó, hiểu sai nghĩa lý của nó mà xuyên tạc rằng: “Cho nên, nếu không có thức này nhận trì, thì các Nhân điên đảo (của) chủng tử phân biệt phi chính đều không có đâu”, tức là phủ định A Lại Da thức, vọng cho rằng: “Nếu không chấp, không chứng A Lại Da thức, nếu A Lại Da thức không nhận trì chư pháp, thì ‘tất thảy nhân điên đảo của chủng tử phân biệt tà’ sẽ bị biến mất”. Mật tông cố ý khuất giải ý nghĩa cuốn luận để khớp với ý mình như vậy, pháp sư Ấn Thuận cũng như vậy, cố ý xuyên tạc văn ý của “Nhiếp Đại thừa luận”, nói lộn rằng luận ý chủ trương không có A Lại Da thức, như thế là hoàn toàn trái ngược với luận ý. Hành vi đó là cùng một giuộc với các thày Mật tông, thực không phải là hành vi của người thành thật. Nói như thế sao có thể gọi là Phật pháp được? Những chỗ hiểu sai, trích dẫn sai trong đoạn văn trên của “Thậm thâm nội nghĩa” cực nhiều, vì chương tiết có hạn nên không thể nêu ra từng cái được. Người có trí tuệ sẽ tự hiểu được.

 

 


[1] Chú thích của người dịch: Dương diệm là như sức nóng mặt trời hiện trên mặt đất (đặc biệt là đường nhựa, sa mạc), nhìn từ xa thấy nó ảo hiện, không thật.

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35552


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg