The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 12: Mật tông phát minh riêng ra Thực tướng Bồ Đề tâm

 Tiết 12: Mật tông phát minh riêng ra Thực tướng Bồ Đề tâm

Các thày Mật tông từ xưa đến nay đều luôn hiểu sai về “Thực tướng Bồ Đề tâm”, cho nên mới có sự tu chứng Mật pháp với bản chất là ngoại đạo pháp. Họ còn dựa vào vọng tưởng về khí công chuyết hỏa của ngoại đạo để tự phát minh ra từ “Thực tướng khí”, lắp cái tên Thực tướng vào pháp luyện khí của ngoại đạo, dẫn nhập vào trong Phật giáo, nói đó là danh tướng tu chứng của Phật pháp: “Quán đỉnh thứ ba thù thắng là: tại thân của thượng sư Kim Cương (dựa vào thân thể của thượng sư Kim Cương để tu Song thân pháp), hiểu được cái lý tam tòa viên mãn (tam tòa là chỉ Mật quán, Huệ quá, Đệ tứ quán), tu quán cho đầy đủ. Đối với đệ tử, cũng hiểu rõ tam tòa thân, ngữ và Bồ Đề tâm viên mãn, lại còn phải dựa vào ba đàn thành của Cụ liên nữ (hơn nữa còn phải dựa vào trong ba tòa đàn thành của Cụ liên nữ), để anh ta hiểu được tam tòa viên mãn (để đệ tử hiểu rõ được đạo lý tam tòa viên mãn – đạo lý viên mãn của Lạc Không bất nhị, Lạc Không song vận). Nhưng đối với Mật quán: chủ yếu là khai hiểu cái lý của tam tòa viên mãn ở trên văn tự Thực tướng của Mật chú (cái đạo lý về Lạc Không bất nhị, Lạc Không song vận hợp tu song thân nói trong Mật chú chính là ngôn từ Thực tướng của Mật tông). Về Huệ quán: chủ yếu là khai hiểu cái lý của tam tòa viên mãn ở trên Thực tướng Bồ Đề tâm của Bản tôn (khi tiến vào cảnh giới Đệ tứ hỷ, Tâm giác tri trong Lạc Không song vận chính là Thực tướng Bồ Đề tâm). Về Đệ tứ quán (quán đỉnh thứ tư): chủ yếu là khai hiểu cái lý của tam tòa viên mãn trên Thực tướng khí của trí tuệ (thượng hành khí, hạ hành khí…trong Lạc Không song vận đã có thể đạt đến trình độ tùy ý mà không dẫn đến xuất tinh lậu thất tinh dịch, cho nên đều là Thực tướng khí)” (61-189).

Thế nhưng Thực tướng Bồ Đề tâm mà Mật tông nói ở đây kỳ thực chỉ là Ý thức, chỉ là do đạt đến cực khoái tình dục dâm lạc khiến cho nó tạm thời không sinh khởi vọng niệm, vẫn có “sự phân biệt được thực hiện tách rời khỏi ngôn ngữ văn tự” trong ly niệm linh tri. Cái tâm như thế tuyệt đối không thể nói là “Thực tướng Bồ Đề tâm” được, vì tất thảy hữu tình đều có thể trụ trong cực khoái tình dục mà không phân biệt ngoại trần như vậy. Ví dụ, khi hành giả Mật tông đang tu Song thân pháp và trụ trong cảnh giới cực khoái tình dục, nếu như có người ngoài bỗng nhiên xông vào, tâm ly niệm linh tri khi đó vẫn có thể phân biệt được người xông vào là bạn hay là người lạ, có gây trở ngại đến mình hay không, Tâm giác tri (anh ta) đều có thể biết, đều có thể phán đoán để có sự ứng phó phù hợp. Trong quá trình hiểu được các pháp đó, lại có thể phán đoán, thẩm định, thực hiện các biện pháp ứng phó, đồng thời vẫn không hề sinh khởi ngôn ngữ văn tự trong tâm, qua đó có thể chứng minh được rằng ly niệm linh tri vẫn là tâm phân biệt, chứ không phải là lìa sự phân biệt như Mật tông nói.

Thậm chí cho đến tất thảy mọi vận hành trong Song thân pháp – đặc biệt chỉ tất thảy mọi hành động trong giai đoạn từ Sơ hỷ đến Đệ tứ hỷ - thì tâm ly niệm linh tri đều có thể quan sát được cái lạc của dâm xúc ấy liệu có luôn duy trì được ở mức đỉnh điểm hay không, đồng thời có thể quan sát được tinh dịch Minh điểm có bị tiết xuất ra hay không. Trong quá trình hành âm bất đoạn, nó đều có thể quan sát bất cứ lúc nào và thuận ứng theo – thực hiện các hành động cần thiết “để giữ được trạng thái cực khoái tình dục mà không xuất tinh” (ví dụ như Mật tông nói về pháp hoãn hành và rùng lắc thân). Sự quan sát phân biệt trong quá trình đó đều không hề nảy sinh ngôn ngữ văn tự, nhưng vẫn có thể thực hiện quan sát phân biệt tùy ý, như thế thì chắc chắn không phải là Tâm vô phân biệt rồi. Vì thế, các thày Mật tông vọng coi Tâm giác tri không khởi ngôn ngữ văn tự mà nhất tâm thụ lạc là Chân Như ở Phật địa, mà nói cái tâm trong cảnh giới cực lạc đại dâm đại tham của Đệ tứ hỷ trong Song thân pháp chuyên tâm thụ lạc mà không sinh khởi ngôn ngữ văn tự, không phân biệt ngoại pháp chính là “Thực tướng Bồ Đề tâm vô phân biệt”. Họ đã hiểu sai về Phật pháp nghiêm trọng đến như vậy, thuần túy chỉ là truyền bá pháp ngoại đạo thì sao có thể gọi họ là tông phái của Phật giáo được? Thế mà lại tự nói rằng mình là Mật pháp Phật giáo còn siêu việt hơn cả Hiển giáo, điên đảo đến mức độ như vậy đấy!

Nếu như có thượng sư Mật tông chủ trương rằng: Trong cơn cực khoái tình dục của Đệ tứ hỷ, vì nhờ có “Không tính kiến”, không tham cầu cái lạc xúc xuất tinh, cho nên không phân biệt “lạc xúc xuất tinh” và “lạc xúc không xuất tinh” có khác biệt thế nào, cho nên gọi là vô phân biệt, gọi là Thực tướng Bồ Đề tâm. Vì có quá trình hành dâm và “Kiến địa” như thế, có thể khiến cho hành giả Mật tông “lấy dục ngăn dục, lấy tham ngăn tham”, nhưng kỳ thực chỉ là dừng cái lạc xúc tham cầu xuất tinh lại mà thôi, chứ không hề ngừng lạc xúc dục trần tham cầu hành dâm lại, vì tất thảy mọi hành giả Mật tông đều bắt buộc phải trụ mãi trong lạc xúc của Đệ tứ hỷ. Cái sự cầu mong đó, kỳ thực là cầu đại dục đại tham, thì sao có thể gọi đó là ngăn dục ngăn tham được? Cho nên, cái mà rơi vào trong cảnh giới dục tham chính là Tâm giác tri Ý thức. Tâm này cho dù có thể trụ mãi trong Đệ tứ hỷ khoái lạc tình dục, mãi mãi không ngừng nghỉ thì cũng vĩnh viễn không thể nào trở thành Thực tướng Bồ Đề tâm được, vì bản chất của nó không phải là Tâm Thức thứ tám, mà Phật nói Thực tướng Bồ Đề tâm mới chính là Tâm Thức thứ tám, còn Ý thức bất luận trụ ở trong cảnh giới nào đi chăng nữa thì mãi mãi vẫn chỉ là Ý thức, tuyệt đối không thể nào có thể biến thành Thức thứ tám Thực tướng Bồ Đề tâm được.

Người học nên biết rằng: Ý thức mãi mãi chỉ là Ý thức, tuyệt đối không thể nào nhờ qua tu hành mà có thể chuyển biến thành Tâm Thực Tướng được. Nếu như có thể chuyển biến được, tất cả mọi người sau khi chuyển đổi Ý thức sang thành Tâm Thực Tướng Thức thứ tám thì sẽ không còn tâm Ý thức, không còn tính giác tri, thì sẽ chẳng khác gì so với hòn đá vô tình, vì Phật đã dạy Thức thứ tám Như Lai Tạng mãi mãi lìa kiến văn giác tri, mãi mãi lìa tính tư lượng. Giả sử đúng như Mật tông nói, có thể đem Tâm giác tri chuyển biến thành Thức thứ tám Thực tướng Bồ Đề tâm thì tất cả mọi người sau khi chứng ngộ sẽ trở thành những kẻ ngu đần, không còn hiểu biết gì về vạn pháp lục trần nữa. Như vậy thì tất cả mọi thượng sư Pháp vương của Mật tông sau khi tu được đại lạc Đệ tứ hỷ và “thành Phật”, thì loại “Phật của Mật tông” đó sẽ mãi mãi không còn có Tâm giác tri Ý thức nữa, đều sẽ trở thành “Phật đần, Phật vô giác tri”, chẳng khác gì so với “người thực vật” liệt giường cả. Cái thứ “Phật” như thế chỉ có thể gọi là “Phật của Mật giáo”, chứ tuyệt đối không phải là Phật nói trong Hiển giáo được, vì Phật Hiển giáo nhất định có tâm giác tri, có tính phân biệt để quan sát căn khí của chúng sinh mà tùy ứng thuyết pháp. Cho nên, “Vô phân biệt”, “Vô phân biệt trí”, “đại lạc Báo thân Phật”, “đại lạc Pháp thân Phật”... mà Mật tông vẫn thường nói đều là lời lẽ của kẻ vọng tưởng, tuyệt đối không phải là Phật pháp.

Mật tông lại sinh khởi các loại vọng tưởng, đem Minh điểm quán tưởng, tinh dịch nam và dâm dịch nữ ra để tạo dựng thành bạch Bồ Đề tâm, hồng Bồ Đề tâm (chi tiết xem trong các Chương 2, 3, 8, 9, ở đây không nhắc lại nữa). Đây cũng là một thứ vọng tưởng. Vì sao vậy? Vì Bồ Đề tâm này chỉ là một thức – Thức thứ tám Như Lai Tạng – không thể lập riêng một pháp nào đó trở thành Bồ Đề tâm, để tránh hỗn nhập với Phật pháp, khiến cho người ta khi muốn tu chứng Bồ Đề tâm không biết phải bắt đầu từ đâu, dẫn đến tu lâu không thể chứng ngộ, lãng phí thời gian và sinh mệnh. Thứ vọng tưởng tà dâm hoang đường của ngoại đạo Mật tông như thế mà lại có thể lừa bịp được người học Phật giáo cả ngàn năm nay, thật đúng là đại cao thủ nói láo vậy.

Thực tướng, Bồ Đề tâm mà Mật tông nói ở đây vừa hư vọng không thật, vừa trái giáo bội lý, tại sao người học trong Phật môn chúng ta lại có thể tán đồng pháp đó của họ là Phật pháp được? Tại sao người học trong Phật môn lại có thể chấp nhận họ là một chi một phái trong Phật giáo được? Còn pháp sư Ấn Thuận thì lại nhất mực công khai coi Mật tông cũng là một chi phái của Phật giáo, phản đối sự thực và kết luận nghiên cứu nói rằng “Mật tông soán ngôi chính thống của Phật giáo”. Pháp sư Ấn Thuận ủng hộ Mật tông như vậy, tôi thật không biết tâm ý của ông ta là gì nữa?

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35558


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg