The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 13: Ngũ pháp thân của Mật tông – vọng tưởng chuyển thức thành trí

 Tiết 13: Ngũ pháp thân của Mật tông – vọng tưởng chuyển thức thành trí

Trong Phật pháp chân chính, các kinh Tam thừa đều nói Phật có tam thân, chưa từng có một bộ kinh nào nói Phật có ngũ pháp thân, thế mà Mật tông lại nói: “Phật của Mật tông có ngũ pháp thân, cho nên siêu việt hơn cả Phật của Hiển tông”. Ví dụ như phái Tát Già nói thế này: “Xuất sinh gian đạo: Khi thượng sư chuyển thức, Hóa thân của ông ấy ở Lục địa của Bình quán, Báo thân ở Tứ địa của Mật quán, Pháp thân ở Nhị địa của Trí tuệ (Huệ quán), Thể tính thân ở trên nửa địa của Đệ tứ quán (quán đỉnh thứ tư). Quả có ba pháp: quả tự lợi, đắc ngũ thân quảng đại có tư lương viên mãn và tương thích duyên khởi...” (61-132~133).

Cũng giống như Hóa thân chứng được ở quán đỉnh thứ tư (lần đâu hợp tu Song thân pháp với thượng sư và thụ quán đỉnh chỉ đạo), kỳ thực chỉ là hư vọng tưởng, mà Hóa thân của Mật tông không phải là Hóa thân mà Phật đã nói. Nó chỉ là thứ vọng tưởng tự ý của Mật tông, dựa vào cảnh giới do tự mình tưởng tượng ra rồi nói là Hóa thân ở Phật địa hoặc Bồ Tát chư địa, dùng để trùm đầu người học Hiển giáo mà thôi, chứ không hề có tu chứng Hóa thân thực chất. Về thuyết Pháp thân, Báo thân, Hóa thân của Mật tông, tôi đã có thuyết minh chi tiết ở Tiết 10 Chương 2, ở đây không nhắc lại nữa nhằm tiết kiệm chương tiết.

Ngoài ra, Mật tông còn nói thế này: “Làm thế nào chuyển thức thành trí?... Cái “trí” trong bản thể là chỉ năm loại trí tuệ của Phật chí thượng, gồm: Một là Đại viên kính trí do Thức thứ tám chuyển thành, nó có thể hiển hiện vạn hữu, không hành hợp nhất với Phật A Súc và Đông phương (Kim Cương). Hai là Bình đẳng tính trí do thức thứ bảy chuyển thành, không hành hợp nhất với Phật Bảo Sinh và Nam phương (Bảo). Thứ ba, Diệu quan sát trí do thức thứ sáu chuyển thành, không hành hợp nhất với Phật A Di Đà và Tây phương (Liên hoa). Thứ tư, Thành (tự tha) sở tác trí, không hành hợp nhất với Phật Bất Không Thành Tựu và Bắc phương (Sự nghiệp). Và thứ năm, Pháp giới thể tính trí, không hành hợp nhất với Phật Tỳ Lô Giá Na và Trung ương (Phật bộ)” (38-687).

Những người trong Mật tông thường nói khoác rằng: “Trong Mật tông từ cổ chí kim đã có nhiều người thành Phật, tam thân ngũ trí đầy đủ viên mãn”. Thế nhưng, Phật mà Mật tông nói ở đây khác biệt rất xa, rất lớn so với Phật ở trong Hiển giáo. Cái mà gọi là “thành Phật” của Mật tông, ngũ trí của Phật đó rất hư vọng, cũng khác xa với Ngũ trí mà Phật đã tuyên giảng; tam thân của Mật tông cũng khác hẳn với Tam thân mà Phật thuyết. Cho nên, Phật của Mật tông và tam thân mà Phật Mật tông chứng được đều không giống với Phật giáo, chỉ là “Phật” và “tam thân ngũ trí” do Mật tông tự sáng tạo ra mà thôi.

Những gì mà các thày Mật tông được “Phật Mật tông” truyền thừa cho đến nay đều là chủ trương Minh điểm trong Trung mạch là A Lại Da thức, rồi lại lập thêm một pháp khác bên ngoài A Lại Da thức làm Như Lai Tạng. Qua đó có thể thấy, Phật của Mật tông và các thày Mật tông xưa nay đều chưa hề chứng được Thức thứ tám Như Lai Tạng. Chưa chứng được Như Lai Tạng, lại còn nhận lầm Minh điểm là A Lại Da thức, thì đã chứng tỏ rõ ràng Phật Mật tông và các thượng sư đều chưa từng chứng được Thức thứ tám, thì đương nhiên biết rằng họ đều chưa từng phát khởi Tổng tướng trí của Thực tướng Bát Nhã. Đã thế thì cũng chứng minh được rằng Phật Mật tông và các thượng sư đều chưa thể tiến vào Thất trụ hiền vị của Biệt giáo Đại thừa, tức đều là phàm phu cả.

Lại nữa, Mật tông đã coi Phật Tỳ Lô Giá Na ở trung ương làm trung tâm, thì lẽ ra phải nên hiểu rõ trung ương lấy gì làm gốc? Nên biết rằng, gốc rễ của trung ương chính là Thức thứ tám của chính mình. Tất thảy hữu tình, trên từ chư Phật, dưới đến sâu kiến đều lấy Thức thứ tám của mình làm trung tâm, thì mới có thể sinh ra vạn pháp. Mật tông đã lấy Phật Tỳ Lô Giá Na ở trung ương làm chủ mà sinh ra tứ phương tứ Phật chư pháp, thì lẽ ra nên chứng trước được bản thể của Phật Tỳ Lô Giá Na ở trung ương, rồi sau đó mới có thể hiểu biết và phát khởi các loại công đức của tứ phương tứ Phật mới đúng. Thế nhưng Mật tông lại đảo lộn ngôn thuyết, nói phải thành tựu trí tuệ của tứ phương tứ Phật trước, rồi mới thành tựu công đức Pháp giới Thể tính trí của bản thân Phật Tỳ Lô Giá Na ở trung ương. Tuyên ngôn trái ngược với chân lý của Pháp giới trí như vậy, thì sao có thể nói pháp của họ là chính pháp được?

Lại nữa, nếu đã lấy Thức thứ tám chuyển sinh thành Đại viên kính trí, lấy thức thứ bảy chuyển sinh thành Bình đẳng tính trí, thì lẽ ra nên chứng biết được Thức thứ tám, thức thứ bảy của mình ở chỗ nào trước mới đúng. Phải chứng trước được tình hình vận hành của Thức thứ tám, thức thứ bảy của bản thân thì mới có thể hiện tiền lĩnh hội tính chất của nó, thì mới có thể chuyển sinh thành trí tuệ của Thực tướng Pháp giới. Thế nhưng, nay xem những gì mà các thày Mật tông xưa nay nói và truyền thụ, chưa hề thấy có người nào đã từng chứng được Thức thứ tám, thức thứ bảy. Đã không thể chứng được thức thứ bảy, mà lại nói suông rằng chuyển được thức thứ bảy thành Bình đẳng tính trí, kỳ thực hoàn toàn vô nghĩa. Đã chưa từng chứng được Thức thứ tám, mà lại nói suông rằng có thể chuyển được Thức thứ tám thành Đại viên kính trí, cũng hoàn toàn là lời nói vô nghĩa lý. Cho nên mới nói thuyết chuyển thức thành trí như thế đều là sự tưởng tượng hư vọng, vì không hề có tu chứng thực chất. Những ngôn từ vô nghĩa như vậy, mà lại nói là chính pháp của Phật giáo, nói là chính pháp cứu cánh nhất trong Phật giáo, đúng là chuyện xưa nay chưa từng có.

Qua chính lý này, chúng ta đã biết rằng Phật của Mật tông và các thượng sư của họ đều chưa hề chứng được Thức thứ tám Như Lai Tạng, cũng chưa từng chứng được thức thứ bảy Ý căn của bản thân, thì rõ ràng là thuyết chuyển thức thứ bảy sinh thành Bình đẳng tính trí, chuyển Thức thứ tám sinh thành Đại viên kính trí của bọn họ đều là đại vọng ngữ, cũng chứng minh được rằng Phật Mật tông và các thượng sư đó đều chưa từng chứng được Bình đẳng tính trí, cũng chưa từng chứng được Đại viên kính trí, lý này cực rõ. Vậy tại sao các đại pháp sư của Hiển giáo lại không biết điều này, mà để cho Mật tông trùm đầu? mà lại bám duyên với các đại “Pháp vương” của Mật tông thế? Thật đúng là những hành vi ngu si hết chỗ nói, làm gì có trí tuệ, làm gì mà được gọi là “đại sư”?

Lại nữa, Mật tông tự tiện phối trí ngũ Phật với ngũ pháp tham sân si mạn nghi, cũng là vọng tưởng. Ngũ Phật nếu đều đã thành Phật rồi, sao lại còn có ngũ độc để rồi lấy ngũ độc làm đại diện cho mình? Thật không đúng lý chút nào! Những nghĩa lý thô thiển như vậy, hành giả Mật tông đều nên biết rõ, chớ để bị tư tưởng tà trái, hoang đường của Mật tông đầu độc nữa!

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35559


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg