The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 14: Thứ tự tu đạo do Mật tông tự bày đặt ra

 Tiết 14: Thứ tự tu đạo do Mật tông tự bày đặt ra

Tài nghề mà các thày Mật tông từ xưa đến nay giỏi làm nhất đó là đứng tách biệt ra khỏi pháp trong chư kinh Phật thuyết để thiết lập riêng Gia hành đạo, Vô học đạo, Tư lương đạo, Thập địa kiến tu đạo và các hành môn khác xa những gì Phật tuyên giảng như dựa vào cơ thể người khác giới để tu chứng “Phật pháp của Mật tông”, rồi nói đó là Báo thân Phật Lô Xá Na của Thích Ca thuyết, hoặc giả xưng đó là do Pháp thân Phật Tỳ Lô Giá Na của Thích Ca tuyên thuyết. Thế nhưng nếu suy xét tham cứu thực tế thì sẽ phát hiện ra rằng những gì mà họ nói đều là từ vọng tưởng tự ý họ tạo ra, hoàn toàn hiểu sai về ý chỉ gốc của Phật pháp.

Ví dụ Tông Khách Ba nói thế này: “Cuốn ‘Giáo thụ huệ luận’ nhằm chứng minh nghĩa lý đó đã dẫn ‘Kết Hợp kinh’ nói rằng: ‘Thập nguyệt tức Thập địa, hữu tình Thập địa vương’. Giải thích nghĩa lý này là từ lúc nhập thai cho đến lúc chưa xuất thai, phối với Thập địa vị, cho nên giai đoạn giữa này là Kiến tu đạo. Sau khi xuất thai thì phối với Vô học đạo, còn lúc chưa nhập thai là Gia hành đạo. Nhưng tu tập tư lương ở phúc điền là Tư lương đạo, phải từ tu Không tính mới lập thành Gia hành đạo. Tường Mễ Kim Cương nói là nhằm đối trị Trung hữu sinh tử, cho nên tạo ra pháp tu Phổ Hiền, ứng thuận ba đạo đó mà tu. Nhưng cũng bao hàm trong này cả” (21-516).

Các thượng sư thời xưa của Mật tông cực thích sáng tạo kinh điển, cho nên khi kết tập kinh điển thường có rất nhiều Mật kinh, Mật tục chưa từng nghe nói đến bao giờ dần dần xuất hiện ở nhân gian. Thủ đoạn mà họ thường áp dụng nhất là: sau khi viết xong thì thường nhờ người lấy giấy, lụa rách cũ…chép riêng một bản, rồi đem cất giấu ở trong một sơn động nào đó, sau đó nói thác với mọi người rằng mình được Không Hành Mẫu hoặc Dũng Phụ thị hiện chỉ bảo trong mơ, rồi đến sơn động lấy ra cúng dường, giải thích, cho lưu hành. Hoặc sau khi tự soạn ra xong, giấu ở trong núi, rồi nói thác rằng mấy năm sau khi ông ta chết thì mới được ai đó lấy ra vân vân. Cái gọi là “Long mãnh khai nam thiên môn thiết tháp” cũng đều không nằm ngoài mưu lược này.

Những nội dung nói trong các Mật kinh, Mật tục đó hoàn toàn không có nghĩa lý gì – những gì nói trong đó đều không từng đề cập đến Đệ nhất nghĩa đến. Pháp không nghĩa lý nhưng lại cứ phải dùng những lời lẽ thổi phồng hoa mỹ, sùng Mật ức Hiển, dựa vào đó để thu hút tài nguyên hoằng pháp thuộc về bên Hiển giáo nhằm cung cấp cho Mật tông hưởng lạc (để cùng với các đệ tử khác giới quảng tu Song thân pháp). Truy cứu bản chất của nó thì thấy tuyệt đối không phải là Phật giáo, bắt đầu từ Bình quán, Mật quán để tu Trung mạch Minh điểm và Bảo bình khí…sau cùng đến tu Song thân pháp trong Huệ quán và Đệ tứ quán (quán đỉnh thứ tư) đều là pháp môn tà kiến, tà tu, tà chứng thâu nhập từ pháp ngoại đạo, làm gì có pháp nào là pháp môn tu hành của Phật giáo?

Ví dụ thuyết của Tông Khách Ba nêu ra ở trên, đem giai đoạn từ nhập thai đến xuất thai phân phối thành quả vị Thập địa tu chứng Bồ Tát trong Phật pháp, hoang đường vô cùng cực. Nếu như những gì ông ta nói là đáng tin cậy, thì chúng ta cần gì phải khổ sở tu chứng Tam thừa Bồ Đề nữa? Chỉ cần ngày ngày hưởng lạc, đợi sau khi chết, luân hồi nhập thai là có thể chứng từng phần các quả vị từ Sơ địa đến Thập địa rồi. Quả nhiên là pháp tu hành quả vị, hơn nữa lại có thể hưởng thụ các pháp dâm lạc của thế gian, tất thảy mọi người học Phật giáo sao không vui vẻ mà làm? Thế Tôn cần gì phải dạy chúng sinh vất vả tu hành pháp Thanh Văn, rồi sau đó thực hiện các loại quán hành, cho đến việc dạy mọi người tu Bồ Tát đạo, lại phải đợi sau ba đại a tăng kỳ kiếp mới thành Phật nữa? Tông Khách Ba nói về cái lý trụ thai mười tháng tức ngang bằng với Thập địa Bồ Tát rốt cuộc là đúng, hay là sai đây? Những người học Mật tông có trí tuệ sao không cùng luận bàn và xem xét thấu đáo việc này?

Lại ví dụ như có thượng sư Mật tông nói rằng: “Có những việc gì không mấy hứng thú, hoặc khổ não hơn việc quan hệ tình dục đây? Kim Cương thừa thừa nhận sự thực này, đồng thời còn truyền thụ rất nhiều pháp tu quả vị… Mà thượng sư chỉ đạo chúng ta tu hành cũng giống vậy, ngài đã ban cho chúng ta thuốc trị bệnh tham. Đây là đạo cứu độ của Phật, Vô thượng Dược Sư vĩ đại. Muốn cởi mở được tâm kết và quét trừ được chướng ngại trong tâm, Du già sĩ bắt buộc phải tu Bảo bình khí trước, mà pháp này cần có nữ Du già sĩ hỗ trợ…Tất cả các luân đều phải dùng khí trí tuệ để cởi mở để cho Trung mạch có thể thông suốt vận hành giữa chúng. Các luân mở ra rồi, có thể tương ứng thực chứng đến chư địa của Bồ Tát đạo hướng đến Phật quả. Hạ môn mở ra liền chứng quả Sơ địa, Nhị địa; Luân thứ hai mở ra, tương đương với đạo quả Tam địa, Tứ địa. Cứ thế suy ra là biết” (38-418).

Mật tông nói như vậy ý là người tu Bình khí Trung mạch, nếu có thể mở được mạch kết ở Mật xứ (chỗ kín) thì tức là đoạn kết, chứng quả, đạt quả vị Sơ địa và Nhị địa của Bồ Tát. Nếu có thể mở được mạch kết ở Tề luân thì cũng là đoạn kết, chứng quả, đạt quả vị Tam địa và Tứ địa. Cứ thế suy ra, nếu người nào có thể mở được mạch kết ở Đỉnh luân thì tức là chứng được quả vị Cửu địa và Thập địa, giành được quả vị Pháp vương của Mật tông. Cứ suy ra như thế thì hành giả Mật tông nếu đã có thể thông đạt Thập địa, tự do tùy ý khống chế tinh dịch Minh điểm không lậu rớt, mà tu thêm Song thân pháp, thực chứng cảnh giới Lạc Không bất nhị, Lạc Không song vận của Đệ tứ hỷ thì tức là đã thành Phật cứu cánh rồi. Chẳng trách người trong Mật tông ai cũng nói: “Pháp của Mật tông thắng diệu hơn Hiển tông bội phần, từ cổ chí kim đã có rất nhiều người thành Phật, hơn nữa lại là Cứu cánh Phật, Báo thân Phật, Pháp thân Phật, chứ không như Thích Ca chỉ thị hiện Ứng hóa thân mà thôi”.

Nay chúng ta quan sát các pháp môn tu chứng và quả chứng nói trong rất nhiều Mật kinh, Mật tục của Mật tông, kỳ thực đều hoàn toàn không liên quan gì đến tu chứng quả vị trong Phật giáo, đều là rơi vào trong vọng tưởng của ngoại đạo, nhưng lại lồng ghép các danh tướng quả vị của Phật pháp vào trong cảnh giới ngoại đạo pháp mà họ tu học, rồi nói rằng đó là những nhà đại tu hành, bậc đại thánh trong Phật giáo, thậm chí còn dám tự tôn cao bằng các danh hiệu Pháp vương thập địa và Phật nữa. Cứ như thế, họ đời đời tương truyền để hạ thấp Hiển giáo là những người tu hành ở Nhân địa, hạ thấp những bậc chứng quả trong Hiển giáo là người có chứng lượng nông cạn. Thế nhưng, nay suy xét “Phật pháp” mà Mật tông hoằng truyền, chẳng khác gì người mù ở xứ nhiệt đới mà nói về tuyết trắng vậy, điên đảo thác loạn, không biết mình đang nói gì nữa. Vì thế mới nói Mật tông quả thực đúng là một thứ tôn giáo điên đảo vọng tưởng, bản chất tuyệt đối không phải là chi nhánh tông phái nào của Phật giáo, tôi không thể thừa nhận họ là một phái nào của Phật giáo cả, trừ phi sau này họ hoàn toàn phế bỏ, xóa sổ hoàn toàn các pháp ngoại đạo như Mật kinh, Mật tục, nương dựa vào các kinh Hiển giáo, hoặc dựa vào chính lý trong “kinh Lăng Nghiêm” để nói, để tu, để truyền.

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35560


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg