The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 5: Ức Hiển sùng Mật để thay thế Hiển giáo

 Tiết 5: Ức Hiển sùng Mật để thay thế Hiển giáo

Ức Hiển để mà sùng Mật cũng là một thủ đoạn để Mật tông hoằng truyền pháp của mình, đây cũng là thủ đoạn mà các thày Mật tông thường dùng từ xưa đến nay. Trong tiết 4 đã nói về việc họ sáng tác thêm ra các danh từ quả vị mới về mặt tu chứng để chụp lên trên chứng lượng Phật pháp Tam thừa (ví dụ như Mật tông xướng ngôn nói những người như Liên Hoa Sinh đã chứng được Báo thân Phật, hoang xưng Phật Thích Ca chỉ là Hóa thân Phật), đâu đâu cũng có. Thế nhưng cái gọi là Báo thân Phật” của họ lại là lấy Đệ tứ hỷ trong Song thân pháp làm cảnh giới báo thân, hoàn toàn không ăn nhập gì với cảnh giới Báo thân mà Phật đã tuyên thuyết, cách nhau không biết lấy gì để tính đếm, thực đúng là những lời lẽ vọng tưởng của riêng họ, tuyệt đối không hề có thực chất về chứng lượng Phật pháp.

Lại cũng giống như Mật tông nói về trí tuệ thứ năm – Pháp giới Thể tính trí “Phật Mật giáo đã chứng còn Phật Hiển giáo chưa chứng”, kỳ thực đó chỉ là cảnh giới của Ý thức, vì vẫn là rơi vào trong biến tướng của Tâm giác tri, do vẫn còn chưa thực chứng được Tâm Thức thứ tám – Như Lai Tạng tính của cội nguồn Pháp giới. Thế nhưng, Mật tông lại sáng tạo ra thêm trí tuệ thứ năm bằng sự hư vọng đó để nói rằng Báo thân Phật của Mật tông chứng thêm một cái Pháp giới Thể tính trí này, vọng ngôn nói còn siêu việt hơn cả Phật Hiển giáo, lấy đó để hạ thấp pháp môn tu hành của Hiển giáo.

Thế nhưng các thày Mật tông từ xưa đến nay và tất cả “những người đã thành tựu đạo Phật Báo thân” kỳ thực hoàn toàn chưa từng chứng được Pháp giới Thể tính trí – trí tuệ thể tính Thức thứ tám cội nguồn của Pháp giới. Trong khi đó, Pháp giới Thể tính trí này chỉ là Tổng tướng trí Bát Nhã mà các Bồ Tát ở Thất trụ vị trong Hiền vị chứng được trong lần đầu khai ngộ mà thôi, Phật của Hiển giáo đã sớm chứng được từ hai đại vô số kiếp trước rồi, đấy chỉ là trí tuệ cơ bản của Bát Nhã lúc sơ ngộ, có gì đáng để huyễn hoặc người học đây?

Mật tông còn đem sự tu chứng Bát Nhã có tầng thứ thấp nhất ra để nâng cao cảnh giới mà Báo thân Phật của họ chứng được nhằm để tự đề cao bản thân. Thế nhưng, chúng ta khi tham cứu sự tu chứng của Báo thân Phật của Mật tông thì thấy kỳ thực họ chưa từng chứng được trí tuệ cơ bản Bát Nhã nông cạn này. Những phàm phu thế tục chưa tu, chưa chứng như thế mà lại khởi mạn tâm, hạ thấp chứng lượng của Phật Hiển giáo, dựa vào đó để tôn cao tự tông mình, đó đều là phạm vào trọng tội vào địa ngục Vô Gián cả. Lấy danh văn lợi dưỡng một đời để đổi lấy quả báo địa ngục thuần khổ cực nặng trong vô lượng kiếp tương lai, quả thực không thể gọi là những kẻ có trí tuệ được.

Lại ví dụ về việc Tông Khách Ba đem tà kiến hiểu lầm về Phật pháp của phàm phu ra để bình luận về lời bình của hai vị Bồ Tát Trần Na và Pháp Xứng đối với tà pháp Mật giáo, xảo biện rằng pháp của Mật tông là chính, là pháp siêu thắng diệu: “...Tất cả các luận bình của hai Chính lý vương (Chú thích gốc: Trần Na và Pháp Xứng), tóm lại là ở Nội minh. Nó khác với Mật chú, toàn là những thứ vô dụng cả. Đó là ‘thuận chính lý tuệ’, sức dùng yếu kém, cho nên khó mà hiểu được sự kiến lập tịnh lý chính đạo mà Đại Huệ nhắm đến, không thể kham nhiệm nổi, cho nên mới buông ra những lời cuồng ngôn đối với người trí tuệ tinh thẩm chính biện giáo lý” (21-496)

Thế nhưng bình luận của Trần Na và Pháp Xứng đối với pháp nghĩa của Mật giáo có gì sai lầm? Nay quan sát các pháp mà Mật tông hoằng truyền, đều chỉ là đem ngoại đạo kiến ra để lồng ghép với danh tướng quả vị của Phật pháp nhằm huyễn hoặc người ta mà thôi, đều không có thực chứng đối với đạo Giải Thoát và đạo Phật Bồ Đề là hai đạo chủ yếu của Phật pháp chân chính, đều đem vọng tưởng ra đều tự nói mình đã chứng. Tông Khách Ba cũng không thể đứng ngoài thứ vọng tưởng này, cho nên mới vọng bình hai vị thánh giả ấy, quả báo địa ngục chắc chắn không thể tránh khỏi. Vì sao vậy? Vì tu chứng trí tuệ Bát Nhã của hai vị ấy tuyệt đối không phải là thứ mà kẻ phàm phu như Tông Khách Ba có thể biết trộm được.

Còn về câu “khó mà hiểu được sự kiến lập tịnh lý chính đạo mà Đại Huệ nhắm đến” của Tông Khách Ba, kỳ thực là kiến lập của kẻ hư vọng tưởng, vì cái đạo tức thân thành Phật của Song thân pháp, về bản chất là pháp ngoại đạo; những nội hàm mà họ nói, họ chứng hoàn toàn không hề tương ứng với đạo Giải Thoát và đạo Phật Bồ Đề (chi tiết xem trong Chương 8 và Chương 9, ở đây không nhắc lại). Việc xảo biện pháp môn tà trái hoang đường của mình như thế là “khó mà hiểu được chính đạo mà Đại Huệ nhắm đến”, lấy đó để phỉ báng hai vị Bồ Tát Trần Na và Pháp Xứng, thật đúng là tội thuần khổ cực nặng trường kiếp trong địa ngục. Việc ức Hiển sùng Mật như thế hòng thay thế Hiển giáo, đúng là một thủ đoạn quen dùng của các thầy Mật tông xưa nay, cũng là mục tiêu thống nhất của bọn họ.

 

 

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35617


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg