The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Tiết 10: Coi dâm lạc là vô tội để lôi kéo người vào Mật tông

 Tiết 10: Coi dâm lạc là vô tội để lôi kéo người vào Mật tông

Các thày Mật tông xưa nay như Tông Khách Ba đều vọng ngôn cho rằng: Người tu học vô thượng yoga hợp dâm tu hành với người khác giới ngoài phối ngẫu của mình (chồng hoặc vợ) đều vô tội. Thế nhưng pháp tức thân thành Phật trong hợp tu song thân như vô thượng yoga, đại lạc quang minh, hách lỗ hát...đều là sự phiền não thô nặng nhất trong thế gian ở Dục giới, nó không những không khiến người ta thành Phật mà còn bị quả báo luân lạc, vì cái mà họ tu là pháp tà dâm; bởi lẽ người tại gia mà quan hệ tình dục với người khác ngoài chồng/vợ là phạm tội tà dâm trong Thập trọng giới; bất kỳ người nào quan hệ tình dục với người xuất gia (nam hoặc nữ) cũng đều phạm tội phá tăng; còn quan hệ với thượng sư, với mẹ, con, gái, dì, căn bản đều là tà dâm và tội loạn luân; tất cả các hành môn trong hợp tu Song thân pháp đều là tội trái với Thập trọng giới của Bồ Tát không thể sám hối.

Thế nhưng, các thày của Mật tông xưa nay, nhằm để người ta xóa được cảm giác tội lỗi, nên đã thiết lập nên tính chính đáng của pháp môn tà trái hoang đường này, nói với các tín đồ rằng: “Người hợp tu Song thân pháp khác với quan hệ tình dục vợ chồng ở thế tục, đây là pháp môn thắng diệu nhất để tức thân thành Phật. Người nào hợp tu Song thân pháp, không những vô tội mà còn có công đức lớn – có thể tức thân thành Phật”. Nói những lời dối trá như vậy là để cho hành giả Mật tông an tâm, để họ tiếp tục hợp tu Song thân pháp với thượng sư hoặc các người học Mật tông khác. Cho nên, Tông Khách Ba của Hoàng giáo Mật tông đã dạy người ta mỗi ngày phải “tinh tấn tu tám thời”. Họ đem thứ đạo tham trước tà dâm đó ra, với danh nghĩa trừ tội, vô tội để truyền bá đạo pháp Mật tông. Những lời lẽ như thế, chi tiết hãy xem trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” của Tông Khách Ba được coi là người thanh tịnh nhất, còn với các tông phái khác, chỉ cần suy nghĩ đôi chút là biết liền.

Gần đây cũng có người xướng ngôn rằng có thể ngự dụng 3000 người nữ mà vẫn vô tội: “Nhưng các vị cần phải biết rằng: Cái việc luân hồi của con người không được coi là đại bệnh. Nếu có sức mạnh, thì cho dù có ngự dụng 3000 người nữ thì cũng chẳng có chướng ngại gì. Thế nhưng, người nào không có sức mạnh thì lại không thể được, vì người trước tuy có giao hợp với người nữ nhưng tâm anh ta bất động, trước sau vẫn là tâm giữ nguyện lợi sinh, cho nên không có tội gì cả” (62-316).

Thế nhưng câu nói này là vọng thuyết, ý nói rằng hành giả Mật tông là những người có sức mạnh đã tu thành Bảo bình khí và không tham cầu rùng mình xuất tinh, khi hợp tu Song thân pháp với người ta, tuy có thể cảm nhận cực khoái tình dục mà không cầu xuất tinh để tự nói rằng “tâm anh ta bất động”, kỳ thực đó tuyệt đối không phải là người có “tâm bất động” thực sự. Bởi lẽ, Mật tông khi hợp tu song thân, nhất định phải tiến vào giai đoạn Đệ tứ hỷ, mà cái tâm truy cầu Đệ tứ hỷ này mới là cái tham cực đại. Đã có sự tham cầu cực đại, thì sao có thể nói là “tâm anh ta bất động” được? Đó thực ra chỉ là những lời chỉ hươu nói ngựa[1] mà thôi.

Lại nữa, đã có thể khiến cho bộ phận sinh dục cương cứng, lại khiến cho hạ thể chảy nước để hành dâm với người ta, thì tức là đã có tâm tham rồi, không thể nói là vô tham được. Lại nữa, ngay cả việc trong lòng sinh khởi dục niệm muốn hợp tu Song thân pháp với người khác cũng là tham rồi. Các loại tầng lớp tham khác nhau như thế, đều là tham cả, thì sao thượng sư Mật tông lại có thể tự nói là vô tham, nói là tâm anh ta bất động? Lý do là gì? Nếu là người tâm bất động, thì tất sẽ không có các loại tham tâm đó. Nếu quả thật vô tham, còn không thể nào hành dâm được với người ta, huống hồ có thể nói “tâm anh ta bất động”? Tuyệt không có cái lý ấy!

Để truyền bá Mật pháp, Mật tông còn nói thêm rằng: Không được lìa tham, nếu lìa cái pháp tu “tham dục là đạo” này thì sẽ mắc đại trọng tội. Họ còn ngăn cản đệ tử không nên cầu chứng “lìa tham dục”. Ví dụ Tông Khách Ba trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” của mình đã dạy các thượng sư phải khai thị với đệ tử như vậy, không được lìa tham vân vân. Có lời văn làm chứng như sau: “Như tội lìa tham dục, Tam giới không có hơn. Lìa tham dục như thế, ngươi mãi không nên làm. Ngươi thọ dụng dâm dục, nhưng làm mà không sợ. Ăn ngũ nhục ngũ lộ, cũng bảo vệ lời thề. Không nên hại chúng sinh, không nên bỏ nữ bảo (không được từ bỏ báu vật người nữ Minh Phi). Không nên bỏ sư trưởng (không được từ bỏ sư trưởng của Mật tông), Tam muội da khó trái (không được làm trái giới Tam muội da trong Song thân pháp). Từ huệ phương tiện tâm, không thiểu không nên làm (từ các pháp phương tiện để cầu thường trụ trong dâm lạc của Đệ tứ hỷ, không có pháp nào không nên làm, dù chỉ là một pháp chút xíu có thể dẫn sinh ra Câu sinh lạc trong hành dâm). Ngươi vô tội chớ sợ, như Như Lai từng nói (kỳ thực Như Lai chưa từng nói vậy, chỉ có “Như Lai” do quỷ thần của Mật tông hóa hiện ra mới nói như vậy) (21-409)

Tông Khách Ba của Hoàng giáo phái cải cách được tôn xưng là thanh tịnh nhất Mật tông đã lừa dối chúng sinh như vậy, nói rằng: “Người nào từ bỏ tham dục đối với pháp hợp tu song thân, thì tội đó nặng nhất, trong Tam giới không có tội nào nặng hơn” để đe dọa các đệ tử Mật tông không được phép từ bỏ tham ái dâm dục trong hợp tu song thân. Dạy đệ tử Mật tông yên tâm hưởng dùng chuyện dâm dục – như Tông Khách Ba từng nói là cùng tu Song thân pháp với các Minh Phi hoặc thượng sư khác giới (Nữ hành giả Mật tông thì hợp tu Song thân pháp với các nam hành giả - gọi là Dũng Phụ), khuyến khích các đệ tử Mật tông cứ làm, không việc gì phải sợ hãi. Bằng cách nói đó, Tông Khách Ba đã khiến cho các đệ tử Mật tông yên tâm hợp tu Song thân pháp với người khác để cầu dâm lạc.

Vì lẽ đó, đệ tử Mật tông khi thụ xong quán đỉnh, nên đem sắc thân của mình cúng dường cho sư trưởng. Ví dụ, trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”, Tông Khách Ba đã trích lời thày ông ta để tán đồng rằng: “Thầy Đáp Nhật Già Bạt nói: Lại phải toàn thân rạp đất đảnh lễ ở cửa đông, úp đầu không ngẩng để dùng thân cúng dường cho sư trưởng” (21-410). Ông ta đã chấp nhận lời nói đó của thày và ghi lại trong cuốn sách của mình. Tông Khách Ba của Hoàng giáo được tôn xưng là thanh tịnh nhất mà còn như thế, thì các phái khác, không cần suy nghĩ cũng biết là thế nào rồi!

Thượng sư của Hoàng giáo Mật tông khi thực hiện quán đỉnh thứ ba cho đệ tử, số lượng Minh Phi cần sử dụng lên đến chín người (chi tiết xem ví dụ trong lời khai thị của Tông Khách Ba, Tiết ‘quán đỉnh thứ ba’, Chương 8). Phải quán đỉnh như thế mới là đúng pháp, nếu không được như vậy tức là phi pháp. Nếu sau khi thụ quán đỉnh thứ tư mà hợp tu với đệ tử hoặc người khác, thì số lượng là vô hạn, không bị hạn chế ở con số 9 người. Đệ tử sau khi thụ quán đỉnh thứ tư mà hợp tu Song thân pháp với hành giả khác giới trong Mật tông, thì cũng không bị hạn chế về số lượng người, thậm chí có thể ngự dụng đến 3000 người nữ (hoặc ngự dụng 3000 người nam) như lời văn ví dụ trong Tiết này mà vẫn vô tội. Họ lấy đó làm thủ đoạn để truyền bá Mật pháp và khuếch trương thế lực của Mật tông. Những kẻ ngu si tham dục tà dâm không biết, bị họ mê hoặc, ban đầu thì cho rằng mình đã nhặt được món hời, cuối cùng thì không tự nhổ ra được, dính chặt vào trong bẫy, “sau khi xả báo, đều bị trầm luân hạ đọa”.

Như Phật Thế Tôn từng nói: “A Nan nên biết rằng, mười loại ma ấy, trong đời tương lai, xuất gia tu đạo trong Pháp của ta: hoặc bám nhập thân người, hoặc tự hiện hình, đều nói mình đã thành Chính Biến Tri Giác, tán thán dâm dục, phá luật nghi của Phật. Trước hết là thày ác ma và đệ tử ma, dâm dâm tương truyền. Tà tinh như thế, mê hoặc tâm phủ, ít thì chín đời, đa phần là hơn trăm đời; khiến người tu hành thật biến thành quyến thuộc của ma, sau khi mệnh tận đều thành ma dân, mất đi Chính Biến Tri, đọa Vô Gián ngục” (“Kinh Lăng Nghiêm” quyển 9).

Tà tri tà kiến của Song thân pháp Mật tông như thế hại người không ít – vì sau khi xả báo tất sẽ đọa địa ngục mà chịu nỗi thuần khổ cực nặng trong trường kiếp, bởi đã hủy phạm Thập trọng giới. Thế mà Tông Khách Ba lại nói việc dạy dỗ chúng sinh tu hành như thế là đem lại lợi ích cho chúng sinh, kỳ thực đó chính là hành vi hại chúng sinh rơi vào địa ngục đó. Như thế mà nói suông rằng “không nên hại chúng sinh”, quả thật là những lời lẽ thâm hiểm đảo lộn trắng đen! là những lời lẽ trộm tên lừa đời vậy!

Mật tông còn tự lập riêng ra 14 giới căn bản của tông phái mình để tự thoát tội rằng: “Hành dâm với tỳ kheo ni, mẹ, con gái, chị em gái, súc sinh giống cái, cho dù là hành dâm phi thời, phi xứ, nếu đối tượng hành dâm là Không Hành Mẫu tương ứng, dâm sự là Sự nghiệp Thủ ấn tương ứng (là người khác giới tu hành Mật pháp hoặc là người nữ đã tu xong Khởi phần), bản thân cũng là người đã có đủ chứng lượng kiên cố về Khởi phần thì đó đều không phải là tà dâm, mà còn có đại công đức”. Cho nên, việc liên tục bất đoạn hành dâm ngày đêm với tỳ kheo, tỳ kheo ni đã chứng Minh điểm và Bảo bình khí, và với cả mẹ, con gái, chị em gái, súc sinh giống cái gọi là “Du già - yoga”, sự “tu hành” như thế cũng còn có thể thực hiện ngay giữa Phật đường nữa.

Việc này có sách làm chứng, cuốn “Minh cấm hành” trong “Biệt giải thoát giới” của Mật tông nói rằng: “Cấm tà dâm ‘ni, mẫu, nữ, tỷ, muội, súc sinh’... Nếu đối tượng sở duyên của anh ta là Sự ấn (đối tượng cùng hành dâm nếu là người tu học Mật pháp – Sự nghiệp Thủ ấn), Không hành nữ (hoặc là Không hành nữ. Kỳ thực đều là quỷ thần, dạ xoa hóa hiện ra), thì không phải là tà dâm. Người tu hành chưa chứng Khởi phần, mà cố tình tự tu với họ thì phạm tà dâm, đọa vào địa ngục Kim Cương... Cấm: hành dâm phi xứ. Hành: có loại là hành (dâm) trong Phật đường, có loại dựa vào đó để hành nhị quán, tam quán (cũng gọi là Mật quán, thượng sư và Minh Phi hành dâm để lấy dâm dịch cam lộ. Chi tiết xem trong Chương 8) trong đàn thành. Minh cấm hành: Phật mạn kiên cố, chân đại lực sung mãn, sự nghiệp Phật đã làm (vì để làm Mật quán, Thượng sư bắt buộc phải sử dụng đến hỗn hợp dâm dịch cam lộ của mình và Minh Phi, vì thế phải đến Phật đường hoặc đàn thành, hành dâm và xuất tinh trước tượng Phật, vét lấy dâm dịch để làm cam lộ thực hiện quán đỉnh bí mật. Chính vì thế, việc hành dâm trước tượng Phật trong Phật đường hoặc đàn quán đỉnh, Mật tông gọi đó là ‘sự nghiệp Phật giáo’, chi tiết xem trong Chương 8), cho nên sự xứ chính tương hợp (vì duyên cớ đó mà sự nghiệp và nơi chốn thực hiện vừa hay phù hợp với nhau)” (34-163).

Sự tà dâm đó hoang đường vô cùng tận, có thể nói là tà dâm nhất thế gian: ngang nhiên có thể hành dâm trước tượng Phật trong Phật đường cùng tỳ kheo ni trụ trì Tam Bảo, ngang nhiên có thể hành dâm trong Phật đường với mẹ thân sinh, đến chị em ruột thân thiết và với cả loài súc sinh bẩn thỉu. Như thế là mượn cớ “tu hành” để quảng hành tà dâm bằng Song thân pháp, từ đó bày đặt ra 14 giới căn bản của Mật tông “Minh cấm hành”, quả thực là sự hư cuồng vọng tà dâm hoang đường vô cùng tận trên đời. Xét kỹ lời nói đó của Mật tông, thấy nguyên nhân chính thực ra là những lời “giải vây cho việc phạm giới tà dâm của Song thân pháp Mật tông”, thực ra là nói để “truyền bá cho Mật tông” mà thôi.

Pháp tà dâm hoang đường của Mật tông đó, vì muốn được cắm chân trong Phật giáo được lâu dài, cho nên còn tiến đến chủ trương tu chứng Song thân pháp chính là “Thiền định Phật giáo”, Tông Khách Ba gọi đó là Đẳng chí, để khiến người học tin theo và tu học. Song thân pháp tà dâm đó chỉ là thế gian pháp hưởng thụ dâm dục, thế mà lại nói thành “Thiền định Phật giáo”, điều này không chỉ có Thượng sư Trần Kiện Dân nói trong cuốn “Thiền định Phật giáo” của mình, mà ngay cả Tông Khách Ba được rêu rao là thanh tịnh bậc nhất trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” do ông ta viết, đâu đâu cũng nói sự “tu chứng” Song thân pháp này là Thiền định “Đẳng chí” mà những người tu hành trong Phật giáo phải cầu chứng.

Những thứ mà các thày Mật tông nói và truyền bá quả thực là dâm loạn, hoang đường đến cùng cực, thế mà họ lại có thể ngang nhiên ra mặt, tranh ngôi vị Phật giáo chính thống với Hiển giáo, lại còn xảo biện nói đó là thắng pháp “tức thân thành Phật” thắng diệu hơn cả Hiển giáo, thật đúng là hoang đường vô tỷ. Những lời lẽ hoang đường đó, chỉ có Mật tông mới tuyên truyền rộng rãi, thật đúng là pháp tà tri, tà kiến, tà hành, tà chứng, không đáng để dạy dỗ.

Trong Mật tông thường có thượng sư tăng cường “hợp lý hóa” bằng việc hoằng truyền Song thân pháp này, để khiến cho các đệ tử sau khi tin theo rồi, lại đem dâm sự Song thân pháp Mật truyền này “kết duyên” với các nữ đệ tử khác. Họ dựa vào đó để làm cái chuôi dao sau này, khiến cho nữ hành giả bị tình cảm trói buộc, khó mà từ bỏ được nam thượng sư Mật tông. Thậm chí, có người còn bí mật ghi hình lưu giữ quá trình hợp tu song thân, khi nữ đệ tử muốn từ bỏ, bèn đem chứng cứ tu hành Song thân pháp ra để đe dọa cô ta, lấy đó để uy hiếp khiến nữ đệ tử không được phản bội ông ta, khiến nữ đệ tử Mật tông không dám bỏ đi và không dám công khai những bí mật trong Mật tông. Với những thượng sư còn tương đối “lương thiện”, thì lấy đó để làm vật chứng đe dọa để khiến nữ đệ tử tuy đã bỏ đi, nhưng vẫn không dám công bố nội tình của Mật tông, để họ tiếp tục có thể cuồng ngôn nói với những người học mới vào Mật tông rằng Mật pháp là pháp tối thắng, là pháp có thể khiến người ta tức thân thành Phật, là Mật pháp tối thù thắng cao siêu hơn cả Hiển giáo... Họ đã khuếch trương thế lực của Mật tông bằng những thủ đoạn như vậy đó!

 

 


[1] Chú thích của người dịch: Thành ngữ ‘Chỉ hươu nói ngựa’ ý nói sự dối trá, nói trái sự thật. Thành ngữ này xuất phát từ điển tích của Triệu Cao đời Tần. Sau khi Lý Tư bị giết, Tần Nhị Thế phong Triệu Cao làm Trung thừa tướng, tước An Vũ hầu, nằm hết quốc chính. Từ đó ông có mưu đồ làm loạn xưng vương, nhưng sợ lòng người không phục, bèn nghĩ cách thử lòng. Tháng 8 năm 207 TCN, ông cho người dắt con hươu đi qua dâng lên Nhị Thế và bảo đó là con ngựa. Nhị Thế cho rằng nó là con hươu nhưng nhiều đại thần đều hùa theo nói là ngựa, chỉ có một số ít không chịu, khẳng định là hươu nhưng không đáng kể. Nhị Thế tưởng là ngựa thật, nghĩ mình loạn óc, bèn vào Vọng Di cung trai giới. Còn những người nói thật đều bị Triệu Cao để bụng trả thù.

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35622


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg