The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Mục 3: Lạc Không song vận của Sự nghiệp Thủ ấn (pháp tu song thân)

 Mục 3: Lạc Không song vận của Sự nghiệp Thủ ấn (pháp tu song thân)

Đây là việc trụ Ý thức ở trong cảnh giới Lạc Không song vận của hợp tu Song thân pháp rồi tu Chuyên nhất, Ly hý, Nhất vị, Vô tu, cho rằng đó là giải thoát thành Phật. Như thế đều là chưa chứng Thức thứ tám nhưng lại cuồng ngôn nói có thể chứng được lục thất địa, thậm chí là thập nhất, thập nhị, thập tam địa để thành Phật đạo. Chủ trương đó của Mật tông, đặc biệt là thứ tự tu đạo trong “Đạo quả - Kim Cương cú kệ chú” của phái Tát Già là cụ thể nhất, còn lời thuật trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” của Tông Khách Ba là chi tiết nhất. Những vọng ngôn như thế đầy rẫy trong các Mật tục của các đại phái Mật tông Tây Tạng, chỗ nào cũng có thể tra ra được. Ví dụ nêu ra trong ba tập đầu cũng rất nhiều, e nói ra thêm rườm rà nên không nhắc lại nữa.

Lời lẽ của các thượng sư Mật tông cổ kim đồng điệu, đều là nhằm sùng Mật ức Hiển để hoằng truyền Mật tông. Ví dụ trong các sách của thượng sư Mật tông do nhà xuất bản Chúng Sinh ngày nay ấn hành đều là lời lẽ của các Nhân Ba Thiết, cùng một giuộc với lời của các thày Mật tông thời xưa, đều rơi vào trong cảnh giới của Ý thức, hoàn toàn chưa đoạn Ngã kiến, thế mà lại nói có thể chứng giải thoát. Họ hoàn toàn chưa hề chứng được Thực tướng tâm của Pháp giới, chưa chứng được Thức thứ tám dẫn đến không thể sinh khởi Vô phân biệt trí căn bản của Bát Nhã, còn hiểu sai be bét về Diệu quan sát trí hạ phẩm, còn không thể nhập vào trong Thất trụ vị của Hiền vị, thế mà lại nói tức thân (ngay thân này) có thể chứng Tứ trí Ngũ trí, có thể đắc Phật quả, tất thảy để là những lời lẽ đại vọng ngữ, xứng đáng gọi là cuồng Mật.

Ví dụ như pháp sư Ấn Thuận nói rằng:

“Mật giáo có nhiều đặc sắc, có khuynh hướng kế thừa cái cũ, có cái rơi vào cực đoan, cũng có cái dung nhiếp ngoại đạo. Nếu nói bằng một câu tóm gọn hết thảy, đều là “lấy tâm thế gian làm giải thoát” cả. Tin tưởng sư trưởng đến mức độ cực đoan, dù là bản thân, vợ hay con gái thì cũng đem cúng hiến cho thày hết mà không chút nghi ngờ. Thày lệnh cho họ giết thì không dám không giết; lệnh hành dâm thì không dám không dâm. Đó chính là thứ cố hữu của Bà La Môn (Chú thích gốc của Ấn Thuận: đọc “Kinh Ương Quật Ma La” là có thể thấy, đó là nội dung mà Phật giáo thời kỳ sau thu nhập vào. Chú thích của Bình Thực: Kinh “Ương” không hề có thuyết “thày lệnh anh ta hành dâm thì không dám không dâm” mà chỉ có thuyết “Thày ngoại đạo lệnh anh ta giết thì không dám không giết”. Ấn Thuận cấy tang vật vu cáo cho Kinh “Ương” để trích dẫn đoạn “kinh văn” chưa từng có, dường như có ý định “cố ý hạ thấp Kinh “Ương”, khiến người ta ngộ nhận rằng kinh này giống với Mật giáo”. Vì sao vậy? Vì trong kinh này của A Hàm nói rõ “có Như Lai Tạng bản tính thanh tịnh”, trái ngược với lời Ấn Thuận nói “A Hàm không từng nói về Như Lai Tạng Thức thứ tám”)…

Thời Phật tại thế đều coi việc y giáo phụng hành là sự cúng dường tối thắng, sau thời Phật nhập diệt thì cũng chỉ cúng bằng đèn hương hoa mà thôi. Nhưng Mật giáo lại coi đối tượng sùng bái là quỷ thần tướng, đồ cúng cho họ đều có rượu thịt. Cái gọi là “Ngũ cam lộ” là chỉ nước tiểu, phân, cốt tủy, nam tinh, nữ huyết. Lại còn có “Ngũ nhục” là chỉ thịt chó, bò, ngựa, voi và thịt người. Lấy những thứ đó làm đồ cúng tế để cầu cứu Bản tôn bảo vệ, cũng thật là kỳ dị…

Đệ tử Thanh Văn xuất gia, coi Ngũ dục như oán độc, coi “dâm dục là pháp chướng đạo”, cố nhiên không phải là thứ mà đệ tử tại gia nhất định phải hành. Thế nhưng lấy quan hệ tình dục làm diệu phương tiện thành Phật, thì duy chỉ Mật thừa mới có…

Chỉ lấy dâm dục đó (này) làm đạo, pháp Mật tông xưa truyền đến nước ta rồi chạy sang Nhật Bản đều chưa từng nói rõ (công khai), cho nên lần nào cũng phá Song thân pháp vô thượng yoga là Mật giáo tả đạo. Thế nhưng các Lạt Ma Tây Tạng đặc biệt hoằng truyền vô thượng yoga lại dương dương cho rằng diệu pháp đó chỉ mình họ có thôi” (“Lấy Phật pháp nghiên cứu Phật pháp”, trang 146~148).

Sự tà trái tham dâm của Mật tông, không phải ngày nay tôi mới biết mà trước đó pháp sư Ấn Thuận cũng đã biết rồi: “Người mà họ sùng thờ là Phật có thiên thân. Thiên thì có Minh Phi (Thiên hậu), Phật cũng bắt chước theo nên có “Phật Mẫu, Minh Phi”, đây là thứ pha tạp với Đại thừa nghĩa “Phương tiện (bi hành) làm Phụ, Bát Nhã (trí tuệ) làm Mẫu”. Kim Cương thì đại diện cho hùng mãnh chiết phục, Liên Hoa thì đại diện cho bi hòa nhiếp dẫn, cũng là sự chuyển hóa thành tên khác của bộ phận sinh dục mà thôi. Bản tôn mà Mật giáo sùng thờ, không ai là không có Minh Phi. Trong Sự bộ thì hai bên nhìn nhau tâm vui vẻ, ở Hành bộ thì nắm tay, Du già bộ thì ôm ghì lấy nhau, còn trong Vô thượng du già thì giao hợp: Đó là pháp được thành lập thuận theo thứ tự hành dâm của Dục giới. Ba bộ đầu tuy có chuyện ngắm nhìn nhau, ôm ấp nhau, nhưng hành giả đều giải thích nó bằng bi trí hòa hợp, còn trong Vô thượng du già thì giao phó cho thực hành. Chiểu theo thuyết của hành giả Mật tông thì “Tam muội da” là biểu tượng, “Pháp” là quán tưởng, “Nghiệp” là thực hành, lẽ nào chỉ có biểu tượng mà quán tưởng thực hành thì không phải ư? Quan sát sự phát triển của Bí Mật giáo, thì không đạt được đến đó thì không dừng (Theo dõi sự phát triển của Mật giáo, nếu không đạt đến cảnh giới tu của Song thân pháp thì sẽ không chịu dừng lại). Người ta coi Bí Mật giáo là Phạn hóa, Thần hóa của Phật thì được, tôn sùng tin tưởng ba bộ đầu mà không tin Vô thượng du già là không được. Làm gì có kẻ trí nào mà lại coi bệnh nhập xương tủy là khỏe mạnh, mà quy trách nhiệm cái chết cho một niệm lúc lâm chung được!? Người tu Vô thượng du già coi dục lạc làm diệu đạo, lấy “Kim Cương, Liên Hoa” mỹ hóa cho bộ phận sinh dục, lại lấy người nữ làm Minh Phi, nữ âm làm Bà già Mạn đà la (coi âm hộ là đàn thành tu hành), lấy quan hệ tình dục làm nhập định, coi nam tinh nữ huyết là xích bạch hai Bồ Đề tâm, coi cái lạc xúc sinh ra khi tinh dịch sắp phụt ra nhưng lại trì bế không cho xuất là đại lạc. Bên ngoài thì huyễn hoặc bằng cái tên Phật giáo, bên trong thực chất giống với thuật ngự nữ” (“Lấy Phật pháp nghiên cứu Phật pháp”, trang 148~149).

Pháp môn tu hành của Mật tông Tây Tạng nếu như không đi đến được giai đoạn cuối cùng là Vô thượng yoga, nếu không đến giai đoạn Đệ tứ hỷ thì sẽ không bao giờ ngừng nghỉ cái tâm tham dâm. Mà theo lời của Tông Khách Ba thì bắt buộc mỗi ngày “tu tám thời”, thì mới đúng nghĩa của “Báo thân Phật” của Mật giáo – lấy cái xúc chạm trong thường thụ dâm lạc làm quả báo. Lấy cái sự hưởng lâu và hưởng mãi dâm lạc như thế để làm “quả báo Báo thân Phật thành Phật” trong tu chứng Mật pháp, cho nên “Báo thân Phật” của Mật giáo đều là hình tượng ôm mãi người nữ để giao hợp hưởng lạc vĩnh viễn không bao giờ rời bỏ. Cho nên, việc tu hành của các thượng sư và hành giả Mật tông nếu như không đạt đến cảnh giới Đệ tứ hỷ này thì sẽ mãi mãi không bao giờ ngừng lại, vì Đệ tứ hỷ dâm lạc là mục tiêu cuối cùng mà pháp môn tức thân thành Phật của họ theo đuổi, cũng là cảnh giới thường trụ mãi mãi của các hành giả Mật tông sau khi thành Phật.

Theo những gì thuật ở trên mà quan sát Thân mật, Ngữ mật, Ý mật của Mật tông thì thấy đều là những hành động dâm uế, vậy mà nói có thể khiến cho Bồ Tát, Nhị thừa, dị sinh đều được thỏa mãn những gì mình mong cầu, thật đúng là hiểu sai về đạo Bồ Tát và đạo pháp Nhị thừa đến mức độ cùng cực rồi! Các Bồ Tát coi nữ dục (nam dục) như rắn độc, Nhị thừa nhìn nữ dục (nam dục) như thuốc độc, vì sao Mật tông mù mắt không thấy, mà lại nói tam mật trong Song thân pháp đó có thể khiến cho Bồ Tát và các thánh Nhị thừa đều được thỏa mãn? Xét cho cùng là muốn thỏa mãn mong cầu gì của họ đây? Mật tông hiểu sai về Phật pháp đến như vậy, vì sao không gọi là cuồng Mật đây?

Lại nữa, Minh quang Đại thủ ấn (Minh Không Đại thủ ấn) của Mật giáo cũng rơi vào trong Tâm ý thức, tự nói rằng trong lúc tĩnh tọa, dựa vào quán tưởng Minh thể trong Trung mạch mà không sinh khởi ngôn ngữ vọng tưởng, gọi đó là Chuyên nhất, Ly hý, Nhất vị, Vô tu, đều là lấy Ý thức và cảnh giới Minh thể làm cái sở tu, sở chứng, hoàn toàn không liên quan gì đến đạo Giải Thoát đoạn Ngã kiến và Ngã chấp trong Phật pháp. Do đó, bọn họ tự nói “quán tưởng Minh thể đến mức Chuyên nhất, Ly hý, Nhất vị, Vô tu tức là đã đoạn Ngã kiến, Ngã chấp, tức là đã thành Phật đạo”, kỳ thực vẫn rơi vào trong Ngã kiến và Ngã chấp, hoàn toàn không liên quan gì đến đạo Giải Thoát, căn bản chưa từng chứng được quả giải thoát.

Còn việc bọn họ nói việc thành Phật, chứng được Tam thân Tứ trí, Ngũ trí trong Minh quang Đại thủ ấn, kỳ thực cũng hoàn toàn chẳng chứng được Tam thân Tứ trí nào cả, hoàn toàn chưa hề chứng được Pháp giới Thể tính trí. Thuyết Ngũ trí của Báo thân Phật của Mật tông càng là thứ tà kiến do vọng tưởng phát minh ra, hoàn toàn không tương ứng gì với đạo Phật Bồ Đề, cũng chẳng có chút xíu giao thoa nào cả. Thứ tà kiến vọng tưởng như thế mà nói còn siêu thắng hơn cả Hiển giáo, tự nói còn siêu vượt hơn cả Hiển giáo mà Phật Thích Ca hoằng truyền, chẳng khác gì người mắc bệnh thần kinh vọng ngữ luyên thuyên nói rằng cảnh giới thần kinh của họ còn cao siêu hơn cả đại sư triết học các nơi. Như thế thì sao không gọi họ là cuồng Mật đây?

Mật giáo Tây Tạng tuy tu Minh quang Đại thủ ấn, nhưng cuối cùng lại không thỏa mãn với Minh quang Đại thủ ấn, nhất định chỉ muốn thỏa mãn bằng dâm lạc “hưởng lâu và hưởng mãi” mà nhất tâm bất loạn. Nếu không đạt đến mục tiêu này thì chắc chắn không thỏa mãn, cho nên họ mới phê phán Đông Mật không truyền pháp môn song thân, nói Pháp thân mà Minh quang Đại thủ ấn chứng được trong Đông Mật (Tâm giác tri nhất niệm bất sinh) chỉ là Pháp thân cô phần, đồng thời coi tu chứng Song thân pháp là khóa trình tu hành tất yếu của “Cứu cánh Phật, Báo thân Phật”.

Tây Mật cho rằng nếu không tu chứng lạc xúc của Đệ tứ hỷ dâm lạc để thường trụ mãi trụ trong cái đại lạc đó, thì không phải là chính báo của Phật địa, không gọi là người đã chứng được cảnh giới của “Báo thân Phật”, cũng vì thế mà không thể sinh khởi Hóa thân để lợi lạc hữu tình, cho nên gọi là Pháp thân cô phần. Thế nhưng nghiền ngẫm Phật pháp thì thấy Hóa thân không phải là chứng được từ hành dâm, mà Hóa thân trong Phật pháp này cũng không phải là Hóa thân nói trong Tây Mật. Như vậy, Báo thân và Pháp thân cũng không phải là có thể chứng được từ hành dâm, mà Báo thân và Pháp thân trong Phật pháp cũng không phải là Báo thân và Pháp thân nói trong Mật giáo. Như vậy, thuyết Tây Mật chủ trương thành tựu Phật đạo thông qua pháp tu song thân Sự nghiệp thủ ấn sẽ thành vọng tưởng, tựa như bệnh nhân thần kinh trong bệnh viện tâm thần vọng tưởng mình là vua một nước lớn vậy. Như vậy sao không phải là cuồng Mật đây?

Vấn đề mà Ấn Thuận phản đối Mật tông chỉ là ở tà pháp lấy tham dục là đạo này, cho nên mới bác bỏ nó. Thế nhưng Ấn Thuận rốt cuộc vẫn chỉ là phản đối kết luận thống nhất “Mật giáo nhập thoán Phật giáo chính thống” của các học giả trong ngoài nước nghiên cứu về lịch sử Phật giáo, không chịu thừa nhận Mật tông là ngoại đạo xâm nhập và thoán cải Phật giáo chính thống. Vì sao vậy? Đó là vì Vô Nhân luận của “Trung Quán kiến phái Ứng Thành” mà Ấn Thuận tôn sùng lại xuất phát từ chính Mật tông. Nếu như phủ định toàn bộ Mật tông thì sự nghiệp nghiên cứu Phật học và “tu chứng” một đời của Ấn Thuận sẽ tan nát hoàn toàn, sẽ chẳng khác gì tự thừa nhận rằng: Những gì mà mình nói đều là hý luận. Như thế thì hệ thống Phật pháp mà ông ta vất vả nghiên cứu, xây dựng một đời sẽ sụp đổ toàn bộ và tan thành mây khói, nỗ lực một đời sẽ trở thành dã tràng xe cát biển Đông. Chính vì lẽ đó mà Ấn Thuận ra sức bảo vệ Mật tông, bao biện cho sự thực lịch sử Mật tông thoán cải Phật giáo chính thống, chỉ với vẻ bề ngoài bác bỏ pháp tu song thân của Mật tông để khiến người ta ngộ nhận cho rằng Ấn Thuận “có lập trường khách quan, công bằng” đối với Mật tông, từ đó biên soạn ra rất nhiều cuốn sách, ủng hộ và hoằng dương tà kiến Trung Quán kiến phái Ứng Thành của Mật tông. Tại sao Ấn Thuận lại làm như vậy? Thực chất là vì tất thảy mọi tư tưởng của Ấn Thuận đều vây quanh Trung Quán kiến phái Ứng Thành của Mật tông để phát triển, để diễn thuyết, để trước tác, để hoằng dương. Ngoại trừ điều này ra, pháp sư Ấn Thuận không có bất cứ khái niệm và tri kiến nào về Phật pháp cả. Cho nên, trong các trước tác đồ sộ của Ấn Thuận, những gì ông ta nói trước sau chỉ có một pháp, đó là tà kiến Vô Nhân luận, Thố Vô Giác luận[1] của Trung Quán phái Ứng Thành.

Vì tin theo Trung Quán kiến phái Ứng Thành của Mật tông, không thể nào hiểu được ý Phật trong Tam chuyển pháp luân, cho nên Ấn Thuận hoàn toàn không thể hiểu được đạo Phật Bồ Đề, ngộ nhận cho rằng: “Đứng ngoài Như Lai Tạng mà thực hiện quán hành Trung Đạo, đồng thời tích tập tư lương phúc đức, sau khi thành tựu có thể thành Phật”. Chỉ cần xem toàn bộ cuốn “Đạo thành Phật” mà Ấn Thuận viết là có thể hiểu được ý ông ta muốn nói gì. Thế nhưng, đọc các thuyết pháp của Phật trong các kinh Tam thừa thì thấy rằng đạo Phật Bồ Đề đều lấy Như Lai Tạng làm trung tâm, dựa vào Thức thứ tám Như Lai Tạng để chứng, để tu, để viên mãn Nhất thiết Chủng trí, sau đó mới được thành Phật, chứ không phải như Ấn Thuận đứng ngoài Như Lai Tạng để nói về đạo thành Phật đâu. Như vậy, Ấn Thuận chỉ là kẻ chưa biết, chưa chứng Thức thứ tám Như Lai Tạng, căn bản là còn chưa nhập vào trong Thất trụ vị của Hiền vị, vẫn còn chưa thể sinh khởi Tổng tướng trí Bát Nhã của Bồ Tát thất trụ vị, thế mà nói có thể biết, có thể hiểu được ý chỉ của Bát Nhã mà Phật nói trong các kinh Bát Nhã, tuyệt không thể có cái lý đó! Người chưa biết, chưa chứng Bát Nhã mà nói có thể hiểu được Nhất thiết Chủng trí Duy Thức trong Tăng thượng huệ học, làm gì có chuyện đó được! Người hoàn toàn không biết, không chứng trong đạo Phật Bồ Đề, mà trong cuốn sách “Đạo thành Phật” của mình lại nói có thể dạy người khác về đạo tu hành thành Phật, đúng là chuyện chưa từng thấy trong thiên hạ.

Thế nhưng, Ấn Thuận với tri kiến suy đoán ức tưởng của phàm phu, lại viết ra các cuốn sách “Diệu Vân Tập”, “Hoa Vũ Tập”, “Đạo thành Phật”, “Nghiên cứu Như Lai Tạng”, “Thám cứu về Không”, “Lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ”…, hộ trì đạo pháp tà kiến Trung Quán phái Ứng Thành của Mật tông, ra sức bác bỏ Thức thứ tám Như Lai Tạng nói trong các kinh A Hàm. Việc bài bác pháp Như Lai Tạng gốc rễ của Phật pháp Tam thừa như thế, thì sao có thể gọi là thày chính pháp được? Ông ta còn chẳng bằng các tỳ kheo, tỳ kheo ni già không biết chữ kia dạy người niệm Phật cầu sinh Cực Lạc, vì hai chúng xuất gia đó không tạo đại ác nghiệp phá hoại chính pháp của Thế Tôn, trong khi các cuốn sách của Ấn Thuận thì đều là các tà thuyết phá hoại chính pháp của Thế Tôn – không có một cuốn sách nào là không phá hoại chính pháp của Phật, hoàn toàn trái ngược với thánh giáo lượng của đạo Giải Thoát và đạo Phật Bồ Đề mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã tuyên thuyết trong các kinh điển Tam thừa. Tư tưởng trung tâm phá hoại nghiêm trọng gốc rễ chính pháp mà Thế Tôn truyền dạy, phủ định Thức thứ tám như thế thật đúng là kẻ ngoại đạo cầu pháp ngoài tâm, thật đúng là những hành vi phá pháp nghiêm trọng đào tận gốc trốc tận rễ của Phật giáo, tại sao không nên nói “Ấn Thuận là kẻ ngoại đạo phá hoại chính pháp của Phật giáo?”. Ấn Thuận ủng hộ tà pháp của Mật tông như vậy, tại sao không gọi ông ta là một phần tử của cuồng Mật?

Nếu như có người nào trong lòng có quan điểm khác mà không thể nào an nhẫn (chấp nhận) trước những tố cáo nghiêm trọng này, hãy dùng tên thật công khai nêu chất vấn qua bài viết hoặc sách, đồng thời không được thực hiện các công kích nhân thân và phỉ báng vô căn cứ, nếu không sẽ giống với cuồng Mật, cũng giống với tà hành phá pháp của Ấn Thuận, tức là người thành tựu nghiệp địa ngục phá hoại chính pháp, sau khi chết khi đọa xuống địa ngục, chớ trách là tôi không nói trước.

 

 


[1] Chú thích của người dịch: Thố Vô Giác luận hay còn gọi là “thuyết thỏ không sừng”.

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35633


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg