The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  Mục 1: Sự Mật

 Tiết 3: Chân Mật – Sự Mật và Lý Mật

 

Mục 1: Sự Mật

Nói về chân Mật, về cơ bản có thể chia thành Sự Mật và Lý Mật. Sự Mật có ba phần là Thân Mật, Khẩu Mật và Ý Mật. Thân Mật là chỉ tu khí công, Minh điểm, chuyết hỏa, qua đó để tăng cường sức khỏe, kéo dài tuổi thọ, chứ không vọng ngôn nói các pháp khí công, Minh điểm, chuyết hỏa có thể khiến người ta chứng đắc đạo Giải Thoát và quả Phật Bồ Đề trong Phật pháp. Ví dụ, có người tu luyện chuyết hỏa nhằm trừ bệnh thân hư sợ lạnh; hoặc có người tu luyện khí công để trừ những bệnh mà y học thế gian không thể chữa nổi; cũng có người thế tục dựa vào tu luyện khí công để mong cường tinh ích khí, bù đắp năng lực tình dục ngày càng suy giảm theo thời gian nhằm đem lại niềm vui cho bạn đời, đạt đến mục đích gia đình hòa lạc…Vì thế mà có người đã dựa vào chứng lượng khí công của mình, mở lớp nhận học trò, tiếp nhận cúng dường, danh lợi song thu. Những ví dụ thực tế đó có đầy rẫy hai bờ Trung Quốc đại lục và Đài Loan. Những việc đó đều thuộc về Sự Mật.

Thậm chí còn có người dựa trên cơ sở tu luyện khí công quyền thuật của mình, đã tự tiện giải thích Phật pháp, bám vào các danh tướng trong Phật giáo để tự cao, nói láo rằng đã ngộ, nhằm kiếm sự cung kính cúng dường của người đời, thu về món tiền lớn, ví dụ như Diệu Thiên, Đại Thừa Thiền Công ở Đài Loan. Cũng có người chỉ bằng tu luyện khí công đã vọng ngôn nói đã chứng Phật quả, thậm chí còn nói mình có chứng lượng Phật pháp còn cao hơn cả Phật Thích Ca Mâu Ni, từ đó mà có được thế lực hùng hậu, khiến chính phủ không thể không để ý, ví dụ như Lý Hồng Chí của Pháp Luân Công ở đại lục…

Những ngoại đạo như vậy, họ dần dần đã có dã tâm tranh ngôi chính thống với Phật giáo cùng với sự phát triển thế lực của mình. Đó đều thuộc về phạm trù của cuồng Mật, vì chỗ nào cũng tự lập bằng Phật giáo, đồng thời với thân xác phàm phu chưa ngộ của mình thường hay hạ thấp giáo chủ Phật giáo, nói trình độ tu chứng của họ và các tổ sư của họ còn siêu việt hơn cả Phật Thích Ca. Những kẻ đó còn không thể hiểu nổi một chút gì về chính lý của đạo Giải Thoát Nhị thừa, còn không hề biết tí gì về chính lý của đạo Phật Bồ Đề Đại thừa, đối với sự tu chứng Phật pháp mà nói, họ đều là những kẻ ngoại môn, đều rơi vào trong tri kiến ngoại đạo, thế mà lại dám đảo lộn lời lẽ, cuồng ngôn nói trình độ tu chứng Phật pháp của mình còn vượt qua cả Phật Thích Ca, đúng là vô trí đến cùng cực. Cho nên mới nói những người như thế đều thuộc về lớp ngoại đạo ăn bám (đội lốt) Phật pháp, tự huyễn bằng Thân Mật quyền thuật hoặc khí công của mình, thậm chí còn muốn nhập thoán chính thống, thực hiện các hành vi khách cướp ngôi chủ. Đó đều là những tông đồ cuồng Mật, hoàn toàn không phải là Sự Mật nữa rồi.

Khẩu Mật là nói về việc trì chân ngôn dựa vào các chú nói trong Mật kinh thời kỳ đầu nhằm cầu mong sự gia trì của Phật Bồ Tát và các thần hộ pháp, cầu mong bình an hoặc giảm bớt chướng ngại khi tu học Phật pháp. Người tu trì như thế là tự tu bằng pháp tụng niệm Kim Cương, không để cho người khác biết, cho nên gọi là Khẩu Mật.

Mật tông thời kỳ đầu vốn dĩ là thần hộ pháp xin dựa vào Phật giáo để cầu tu chứng Phật pháp, từ đó phát nguyện hộ trì chính pháp của Phật giáo, qua đó để tu tập tích lũy phúc đức, lấy đó để làm tư lương[1] tu chứng Phật pháp. Nhờ có sự nỗ lực hộ trì của các vị thần hộ pháp đó mà sau này đã khiến cho người học ở nhân gian có được sự hộ trì, ít gặp phải chướng ngại khi tu hành thế gian pháp và tu đạo. Sau khi bia miệng đã dần dần lưu truyền khắp nơi, được người người biết đến, vì thế mà số lượng những người cầu sự trợ giúp của thần hộ pháp ngày càng nhiều hơn, thế là xuất hiện những người thế tục – những người sùng bái cúng dường mà không tu Phật pháp – cũng vào trong Phật giáo để cầu thần lễ Phật mà không hề tu hành, trở thành những tín đồ chuyên cầu thế gian pháp.

Sự tín ngưỡng của những người thế tục đó đã khiến cho số lượng người tu trì chú Mật pháp ngày càng đông hơn, từ đó dẫn đến sự phát triển của nghi quỹ cầu thần trong Mật pháp. Cùng với dòng chảy thời gian, các nghi lễ cầu thần trong Mật pháp cũng ngày càng trở nên hoàn thiện, đầy đủ, cũng vì những hành vi của con người đó mà dẫn đến sự ra đời của Mật giáo. Nhưng những việc này vẫn chưa đáng coi là tai họa, mà là sau này do sự tu chứng trong Mật giáo rất thô thiển, khó nhập vào chính lý của Phật pháp, lại vì muốn tranh cao thấp với Hiển giáo, cho nên họ đã thâu nhập tư tưởng của phái Tính Lực ngoại đạo vào, đồng thời tỏ ra bí mật không cho người khác biết, rồi tự tôn cao lên thành Mật pháp cao siêu có thể khiến người ta tức thân thành Phật, trùm đầu người khác. Từ đó đã dẫn đến việc khách đoạt ngôi chủ của Mật giáo trong Phật giáo sau này, gây ra sự thực lịch sử nhập thoán chính thống bằng ngoại đạo pháp, khiến cho Phật giáo vì thế mà diệt vong.

Vì thế Mật tông thời kỳ đầu chỉ là một tôn giáo cầu khấn sự trợ giúp của thần hộ pháp, các mật hành như “trì chú” mà họ tu còn gọi là trì minh, đều là những hành vi bí mật không tuyên thuyết công khai cho người ngoài. Thông qua khẩu mật sự hành như thế để dành được lợi ích của thế gian pháp, hoặc đạt được mục đích bài trừ các trở ngại trong quá trình tu học Phật pháp, gọi là Khẩu Mật.

Về Ý Mật, là chỉ việc tu sửa các hành vi tham sân… ở Dục giới thông qua sự quán. Ví dụ như việc quán hành các ngũ độc tham sân mà Mật tông dạy ngày nay đều thuộc về Ý Mật trong Sự Mật. Lại như việc các thày Mật tông xưa nay tăng cường tư duy quan sát đối với các pháp Nhị thừa như Tứ thánh đế, Bát chính đạo, Nhập nhị nhân duyên, Ngũ âm, Lục nhập, Thập nhị xứ, Thập bát giới được nói ở trong Phật pháp Tam thừa, thông qua thực tiễn hiểu rõ Uẩn Xứ Giới là vô thường, khổ, không, vô ngã, từ đó trong lòng không còn khởi tham trước thế gian pháp nữa, tất cả đều là Ý Mật trong Sự Mật.

Người trong Mật tông thực hiện quán hành như vậy, tuy còn chưa thể hiện quan được “Ý thức Ngã” hư vọng, cũng chưa thể hiện quan được “Ý căn Ngã” tư lượng làm chủ cũng là hư vọng, cho nên dẫn đến không thể nào chứng được Sơ quả Thanh Văn, nhưng đó cũng gọi là Ý Mật của hành giả chân Mật. Người quán hành Mật tông như thế, nếu như anh ta không vọng ngôn nói về chứng quả, cũng không vọng ngôn tự ý phát minh ra những thứ mới mẻ, thì tức là thuộc về chân Mật, vì anh ta được coi là người quán hành trong Phật pháp, đã có những kiến giải khác với hữu tình thế tục rồi.

Việc luyện khí, trì chú cầu bình an trong Mật tông, lấy đó để làm trợ duyên trong tu học Phật đạo, tuy không phải lấy đó làm tu chứng Phật pháp, chỉ coi là sự trợ duyên bài trừ chướng nạn thân bệnh trong quá trình học Phật, mà không công khai tuyên giảng; nhưng vì nó có thể giúp ích cho hành giả trong việc quán hành và tu chứng Phật pháp, không phải là thứ mà người ngoài có thể biết được, cho nên mới gọi là hành giả chân Mật trong Sự Mật.

 

 


[1] Chú thích của người dịch: Tu hành Phật pháp từ lúc đầu cho đến khi thành Phật phải trải qua 3 đại a tăng kỳ kiếp. Vì phải trải qua một quãng đường tu hành vô cùng dài và gian khổ như thế, cho nên phải có tư lương (lương thực) và phúc đức rất lớn đi kèm thì mới đến đích được.

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 35636


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg