The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  TÀI LIỆU THAM KHẢO

 TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

Giải thích cách nêu xuất xứ của câu từ trong cuốn sách này:

Ví dụ 1: (230-3) là Cuốn sách thứ 230, trang 3.

Ví dụ 2: (62-55-9) là Cuốn sách thứ 62, trang 55 – hàng 9.

Ví dụ 3: (1-24-B) là Cuốn sách thứ 1, trang 24, mặt B.

Giải thích số hiệu: Đánh số theo thứ tự thu thập tài liệu trước sau trong mục lục này.

  1. Liên Hoa Sinh đại sư ứng hóa sử lược (Phật sống Nặc Na dịch giảng, Công ty xuất bản Tân Văn Phong, tháng 1.1983, tái bản).
  2. Nguồn gốc tông phái thổ quan (La Tang Khước Quý Ni Mã viết, Lưu Lập Thiên dịch, Trung tâm phục vụ Từ Huệ Phật giáo, tháng 7.1993 xuất bản)
  3. Nhập Bồ Tát hành (Tịch Thiên viết, Trần Ngọc Giao dịch và chú thích, NXB Tạng Hải, tháng 1.1992 sơ bản).
  4. Mật Lặc Nhật Ba toàn tập (Tổng cộng 3 tập, Trương Trừng Cơ dịch, NXB Huệ Cự, tháng 6.1980 sơ bản)
  5. Cương Ba Ba đại sư toàn tập (Trương Trừng Cơ dịch, NXB Pháp Nhĩ, tháng 9.1985 sơ bản)
  6. A Để Hạp và Bồ Đề Đạo đăng thích (Trần Ngọc Giao, NXB Đông Sơm tháng 4.1991 tái bản)
  7. Truyện về tôn giả A Để Hạp (Pháp sư Pháp Tôn dịch, NXB Phật Giáo, tháng 1.1986 xuất bản)
  8. Nhập trung luận thiện Hiển Mật ý s (Tông Khách Ba viết, Pháp sư Pháp Tôn dịch, Viện giáo lý Hán Tạng viện Phật học Thế giới, 30.3.1942 xuất bản).
  9. Nhập trung luận thích (Tông Khách Ba viết, Pháp sư Pháp Tôn dịch, Công ty xuất bản văn hóa Phương Quảng, tháng 6.1998 sơ bản tái in)
  10. Phật gia kinh luận đảo độc tùng thư – Mật tục bộ tổng kiến luận quảng thích (Khắc Chủ Kiệt viết luận, Đàm Tích Vĩnh dịch và hướng dẫn đọc, Quỹ Giáo dục Phật Đà ấn hành).
  11. Thắng tập Mật giáo vương ngũ thứ đệ giáo thụ thiện hiển cự luận (Tông Khách Ba viết, Pháp sư Pháp Tôn dịch, Công ty xuất bản văn hóa Phương Quảng, tháng 5.1995 sơ bản)
  12. Lịch sử giáo pháp phái Giác Nãng (A Vượng Nặc Truy Trát Ba viết, Hứa Đắc Tồn dịch, NXB Nhân dân Tây Tạng, tháng 1.1993 sơ bản)
  13. Tịch cổ giám kim thoại Tâm kinh (Vương Vũ Liệt, Học hội Chính kiến Đài Loan, 8.8.1997 sơ bản)
  14. Phật giáo của Tây Tạng (Sơn Khẩu Thủy Phượng, Hứa Tường Chủ dịch, NXB Pháp Nhĩ, 1.2.1991 sơ bản)
  15. Lịch sử Phật giáo Tây Tạng (Thỉ Kỳ Chính Kiến viết, Trần Quý Thanh dịch, NXB Văn Thù, tháng 10.1986 sơ bản)
  16. Mật thừa bế quan bảo điển (Côn Thu Nhân Khâm và Nhân Tân Khước Trát viết, Xích Liệt Luân Chu dịch, NXB Đại thủ ấn, năm 2000)
  17. Trực chỉ đại ấn (Xích Liệt Luân Chu giảng, Hoàng Anh Kiệt dịch, NXB Đại thủ ấn, năm 2000)
  18. Bồ Đề đạo thứ đệ lược luận – quyển thượng (Ngang Vượng Lãng Cát Kham Bố khẩu truyền, Quách Hòa Khanh dịch, Công ty xuất bản văn hóa Phương Quảng, tháng 1.1994 sơ bản)
  19. Bồ Đề đạo thứ đệ lược luận – quyển hạ (Ngang Vượng Lãng Cát Kham Bố khẩu truyền, Quách Hòa Khanh dịch, Công ty xuất bản văn hóa Phương Quảng, tháng 1.1994 sơ bản)
  20. Bồ Đề đạo thứ đệ lược luận (Tông Khách Ba viết, Pháp sư Đại Dũng dịch, NXB Phật Giáo, năm xuất bản không rõ).
  21. Mật Tông đạo thứ đệ quảng luận (Tông Khách Ba viết, Pháp sư Pháp Tôn dịch, NXB Diệu Cát Tường, 20.6.1986)
  22. Biện liễu bất liễu nghĩa thiện thuyết Tạng luận (Tông Khách Ba viết, Pháp sư Pháp Tôn dịch, NXB Đại Thiên, tháng 3.1998)
  23. Hiển Mật tu hành thứ tự khoa tụng, Huệ hành tập luyện khắc ý thành niệm ký (Tông Khách Ba viết, Thượng sư Năng Hải tập hợp, Công ty xuất bản văn hóa Phương Quảng, tháng 1.1985 sơ bản)
  24. Bồ Đề đạo thứ đệ luận khoa tụng giảng ký (Tông Khách Ba viết, Thượng sư Năng Hải tập hợp, Công ty xuất bản văn hóa Phương Quảng, tháng 11.1984 sơ bản)
  25. Tông Khách Ba ứng hóa nhân duyên tập (Pháp sư Tu Huệ biên thuật, NXB Phật Giáo, tháng 5.1985 sơ bản)
  26. Truyện đại sư Tông Khách Ba chí tôn (Châu Gia Hạng viết, Quách Hòa Khanh dịch, Viện giáo lý Hoa Tạng, tháng 9.1992 sơ bản).
  27. Truyện đại sư Tông Khách Ba chí tôn – quyển thượng (Châu Gia Hạng viết, Quách Hòa Khanh dịch, NXB Nhân dân Thanh Hải, năm 1993 sơ bản)
  28. Truyện đại sư Tông Khách Ba chí tôn – quyển hạ (Châu Gia Hạng viết, Quách Hòa Khanh dịch, NXB Nhân dân Thanh Hải, năm 1993 sơ bản)
  29. Bồ Đề chính đạo Bồ Đề giới luận (Tông Khách Ba viết, Thang Hương Minh dịch, Trung tâm văn hóa Hoa Tạng, Viện Nghiên cứu Phật học Tây Thiên Kim Luân Sơn, tháng 11.1989).
  30. Bồ Đề đạo thứ đệ lục gia hành khóa tụng pháp bản (Hội Phật học Tông Khách Ba ấn hành, năm xuất bản không rõ)
  31. Đâu Suất thượng sư du già (Hội Phật học Tông Khách Ba ấn hành, năm xuất bản không rõ)
  32. Khúc quăng trai toàn tập (1) (Trần Kiện Dân viết, Từ Cần Đình biên, Hội Phật học Phổ Hiền Vương Như Lai, 10.7.1991)
  33. Khúc quăng trai toàn tập (2) (Trần Kiện Dân viết, Từ Cần Đình biên, Hội Phật học Phổ Hiền Vương Như Lai, 10.7.1991)
  34. Khúc quăng trai toàn tập (3) (Trần Kiện Dân viết, Từ Cần Đình biên, Hội Phật học Phổ Hiền Vương Như Lai, 10.7.1991)
  35. Khúc quăng trai toàn tập (4) (Trần Kiện Dân viết, Từ Cần Đình biên, Hội Phật học Phổ Hiền Vương Như Lai, 10.7.1991)
  36. Khúc quăng trai toàn tập (5) (Trần Kiện Dân viết, Từ Cần Đình biên, Hội Phật học Phổ Hiền Vương Như Lai, 10.7.1991)
  37. Thiền định Phật giáo – quyển thượng (Trần Kiện Dân thuật, Khang Địa Bảo La bút lục, Vô Ưu Tử dịch, Hội in kinh Phổ Hiền Vương Như Lai, tháng 6.1991 xuất bản)
  38. Thiền định Phật giáo – quyển hạ (Trần Kiện Dân thuật, Khang Địa Bảo La bút lục, Vô Ưu Tử dịch, Hội in kinh Phổ Hiền Vương Như Lai, tháng 6.1991 xuất bản)
  39. Mật chú đạo thứ đệ bảo man thích (Liên Hoa Sinh viết, giáo sư Âu Dương Chấp giảng, Lưu Nhuệ Chi dịch, bản copy sách Tạng, Ủy ban nghiên cứu Tây Tạng, Hội hiệp tiến Nam Á)
  40. Đại ảo hóa võng đạo dẫn pháp (Liên Hoa Sinh viết, Đôn Chu nhân ba thiết giảng, Lưu Nhuệ Chi dịch, bản copy sách Tạng, Ủy ban nghiên cứu Tây Tạng, Hội hiệp tiến Nam Á)
  41. Nghiên cứu so sánh đại thủ ấn các nhà (Lựu Nhuệ Chi viết, xuất bản năm 1958, bản copy sách Tạng, Ủy ban nghiên cứu Tây Tạng, Hội hiệp tiến Nam Á)
  42. Cụ sinh khế hợp thâm đạo liễu nghĩa hải tâm yếu (A Dật Đa Pháp Tự Tại, Trần Tế Bác dịch, xuất bản năm 1981, bản copy sách Tạng, Ủy ban nghiên cứu Tây Tạng, Hội hiệp tiến Nam Á)
  43. Đại thừa yếu đạo Mật tập – quyển thượng (Thượng sư Phát Tư Ba đời Nguyên, NXB Tự Do, năm Nhâm Dần)
  44. Đại thừa yếu đạo Mật tập – quyển hạ (Thượng sư Phát Tư Ba đời Nguyên, NXB Tự Do, năm Nhâm Dần)
  45. Đại viên mãn vô thượng trí quảng đại tâm yếu (Trí Bi Quang viết, Căn Tang Trạch Trình giảng, xuất bản năm 1982)
  46. Thậm thâm nội nghĩa (Nhượng Tưởng Đa Kiệt viết, Trần Kiện Dân dịch, nhóm Lâm Ngọc Đường ấn hành 1.2.1998)
  47. Ngưỡng Đoài – Xu nhập quang minh đạo (Long Thanh Ba kết tập, Thượng sư Cống Cát giảng, xuất bản năm 1972, bản copy sách Tạng, Ủy ban nghiên cứu Tây Tạng, Hội hiệp tiến Nam Á)
  48. Đại viên mãn hư ảo hưu tức diệu niên sớ (Long Thanh Ba viết, Vô Cấu Quang dịch, Căn Tang Trạch Trình giảng, Lưu Lập Thiên dịch, xuất bản 10.10.1983, bản copy sách Tạng, Ủy ban nghiên cứu Tây Tạng, Hội hiệp tiến Nam Á)
  49. Từ nghĩa bảo tạng luận (Long Khâm Ba soạn, Cát Mỹ Cổn Tang Chân Chân dịch, NXB văn hóa liễu nghĩa Hỉ Lâm Uyển, tháng 2.1998 sơ bản)
  50. Mật thừa pháp hải (Đa Giác Kiệt Bạt Cách Tây viết, Công ty Tân Văn Phong, tháng 6.1987)
  51. Hướng dẫn Sinh khởi thứ đệ Không Hành Mẫu Na Lạc – Minh điểm các tâm Không Hành Mẫu Kim Cương (Ni Mai Ba Đức Khâm Hắc Lỗ Hát viết, Pháp Hộ dịch, Thư cục Nam Thiên, tháng 7.1997 sơ bản).
  52. Hiện quan trang nghiêm luận “lược thích” (Pháp sư Pháp Tôn dịch, Công ty Văn hóa Lão Cổ, tháng 3.1990 tái bản).
  53. Hiện quan trang nghiêm luận “sơ thám” (Trần Ngọc Giao viết, NXB Đông Sơ, tháng 2.1992 sơ bản in đợt 2).
  54. Hiện quan trang nghiêm luận “lược thích và khoa phán biểu” (Pháp sư Pháp Tôn dịch, NXB Mật Thừa, tháng 1.1987 sơ bản).
  55. Bát Nhã Ba La Mật Đa giáo thụ hiện chứng trang nghiêm luận danh cú tụng giải (Thượng sư Năng Hải chú thích, Công ty Văn hóa Phương Quảng, tháng 9.1994 sơ bản).
  56. Bồ Đề tông đạo Bồ Tát giới tập tụng (Thượng sư Năng Hải viết, Công ty Văn hóa Phương Quảng, tháng 1.1995 sơ bản).
  57. Định đạo tư lương luận tụng đẳng (Thượng sư Năng Hải viết, Công ty Văn hóa Phương Quảng, tháng 1.1995 sơ bản).
  58. Tu tâm thất nghĩa luận đẳng truyền tai tối thắng (Tông Khách Ba viết, Ngang Vượng Lãng Cát Khẩu truyền dạy, Quách Hòa Khanh dịch, NXB âm thanh Phúc Trí, tháng 7.1994 sơ bản).
  59. Hướng dẫn ngừng nghỉ tâm tinh đại viên mãn (Long Khâm Ba viết, Đàm Tích Vĩnh dịch và giải thích, Hội Phật học Mật thừa Hương Cảng, tháng 9.1996 sơ bản).
  60. Đại viên mãn tam tự giải thoát luận (Long Khâm Ba viết, Pháp Hộ dịch, NXB Văn hóa Đại Tạng, tháng 3.1995 sơ bản).
  61. Đạo quả - Kim Cương cú kệ chú (Tất Ngõa Ba viết, Tát Già Ban Trí Đạt giảng thích, Pháp Hộ dịch, NXB Văn hóa Đại Tạng, tháng 5.1992 sơ bản).
  62. Na Lạc lục pháp (Đạo Nhiên Ba Lạc Bố Thương Tang Bố giảng thuật, Hộ Dĩ Chiếu ghi chép, Công ty Văn hóa Thần Hy, tháng 8.1994, sơ bản).
  63. Bảo tính luận tân dịch (Di Lặc Bồ Tát tạo, Vô Trước Bồ Tát chú thích, Đàm Tích Vĩnh dịch, Hội Phật học Mật thừa Hương Cảng, tháng 12.1996 sơ bản).
  64. Cửu thừa thứ đệ luận tập (Pháp vương Đôn Châu viết, Hứa Tích Ân dịch, Hội Phật học Mật thừa Hương Cảng, tháng 9.1997 sơ bản).
  65. Cát tường tập mật đại tục vương (Bảo Pháp Xứng Nhân Khâm Khúc Trát dịch, Trung tâm phục vụ Từ Huệ Phật giáo, tháng 7.1997 sơ bản).
  66. Nhất thiết pháp đại viên mãn – Bồ Đề tâm phổ tác vương (Thi Liệt Tinh Cáp Khách Lạp Tỳ Lô Tra Na Tạng dịch, Trần Văn Nhân dịch sang tiếng Hán, NXB Viên Minh, tháng 6.1997 sơ bản).
  67. Đại viên mãn – lý niệm cuối cùng của Phật Đà (Trác Cách Đa Kiệt viết, NXB Viên Minh, tháng 8.1996 sơ bản).
  68. Đại thủ ấn – pháp tu hành thành tựu tối cao (Thái Tích Đỗ viết, NXB Úm A Hồng, tháng 7.1998, sơ bản).
  69. Thế giới tương đối – Tâm cứu cánh (Thái Tích Đỗ viết, Hội Phật học Cát Cử Đài Bắc, tháng 6.1996, sơ bản).
  70. Pháp đại giải thoát của Mật tông (Nguyên tác của Liên Hoa Sinh, Gia Sơ giải thích nghĩa, Dương Huyền và Đinh Nãi Quân dịch, NXB Viên Thần, tháng 11.1997, sơ bản).
  71. Đèn trăng – Tam ma địa vương kinh thích (Sáng Cổ viết, Phách Điền Trách Mã dịch, NXB Chúng Sinh, ngày 31.10.1997, sơ bản).
  72. Đại lạc quang minh – Đại thủ ấn của Kim Cương thừa (Cách Tang Gia Thố viết, Thôi Trung Trấn dịch, NXB Văn Thù, tháng 8.1988 tái bản).
  73. Hỷ Kim Cương bản tục (D.L Tư Nại Cách La Phu dịch sang tiếng Anh, Thôi Trung Trấn dịch sang tiếng Trung, Viện dịch kinh Thời Luân, tháng 3.1989 sơ bản).
  74. Thời Luân bản tục chú (Hát Vượng Đạt Cát giảng thuật, Thôi Trung Trấn dịch, Viện dịch kinh Thời Luân, tháng 10.1989 sơ bản).
  75. Đại lạc quang minh “bản bổ sung” (Cách Tang Gia Thố viết, Thôi Trung Trấn dịch, Viện dịch kinh Thời Luân, tháng 4.1992 bản bổ sung).
  76. Nghi quỹ quán đỉnh Sinh khởi thứ đệ Thời Luân Kim Cương (Thôi Trung Trấn dịch, Viện dịch kinh Thời Luân, tháng 4.1992 sơ bản).
  77. Hương Ba Cát Cử pháp bảo tập (Đạt Lai Lạt Ma đời thứ hai viết, Thôi Trung Trấn dịch, Viện dịch kinh Thời Luân, tháng 4.1989 sơ bản).
  78. Thắng lạc lược tục (Bối Mã Hát Nhạ và Nhạ Mã của Ấn Độ truyền thụ, Nhân Khâm Tang Ba Tạng dịch, Nhân Khâm Khúc Trát dịch sang tiếng Hán, Trung tâm phục vụ Từ Huệ Phật giáo Hương Cảng, tháng 7.1997 bản đẹp gáy cứng).
  79. Ba đạo chủ yếu (Phách Banh Khách truyền thụ, Nhân Khâm Khúc Trát dịch, Kinh Tục pháp lâm, tháng 8.1997 sơ bản).
  80. Tập giải pháp tu tâm lìa xa bốn loại chấp trước (Nhóm tác giả Kiệt Sâm, Đạt Ba, Gia Thần, dịch giả Tôn Nhất, Nhóm Trần Thánh, tháng 4.1989 ấn hành).
  81. Thích lượng luận lược thích (Pháp sư Pháp Tôn biên, NXB Phật Giáo, tháng 2.1984 sơ bản).
  82. Lượng lý bảo tạng luận (Tát Ban Khánh Hỷ Tràng biên soạn, Pháp sư Minh Tính dịch sang tiếng Trung, NXB Đông Sơ, tháng 7.1994 sơ bản).
  83. Giảng nghĩa về Nhập Trung Luận Tụng (Thích Bào Tràng viết, Công ty ấn loát Tam Dương, không ghi năm xuất bản).
  84. Nhập Trung Luận (Pháp sư Nguyệt Xứng thời Ấn Độ cổ viết, pháp sư Pháp Tôn dịch, Công ty xuất bản Tân Văn Phong, tháng 1.1984 sơ bản).
  85. Tập luận văn của pháp sư Pháp Tôn (Pháp sư Pháp Tôn viết, NXB Đại Thiên, tháng 5.1997, bản đẹp gáy cứng).
  86. Thánh tăng thiết ký (Cống Lạp Kham Bố biên dịch, Công ty sự nghiệp Pháp Âm Phổ Tế, tháng 9.1999 sơ bản).
  87. Lược thích năm mươi pháp tụng của thượng sư (Nguyên tác của Bạt Duy Đế Ngõa, Ấn Độ, Đan Cát nhân ba thiết dịch, NXB Phật Giáo, tháng 7.1983 sơ bản).
  88. Đại viên mãn thiền định hưu tức thanh tịnh xa giải (Vô Cấu Quang viết, Long Thanh Thiện Tương Ba chú thích, NXB Tự Do, tháng 5.1992 xuất bản).
  89. Mật tông đạo thứ đệ luận (Khắc Chủ Kiệt viết, pháp sư Pháp Tôn dịch, NXB Phật Giáo, không ghi năm ấn hành).
  90. Vô thượng Mật thừa tu trì tam yếu sách (Nhóm tác giả Tông Khách Ba, Đôn Châu, Long Thanh Ba, Học hội Kim Cương thừa, tháng 12.1987 sơ bản).
  91. Tứ bộ tông nghĩa lược luận giảng thích (Pháp sư Nhật Huệ giảng thuật, NXB Pháp Nhĩ, ngày 1.5.1991, sơ bản bản gáy cứng).
  92. Không Hành giáo thụ (Liên Hoa Sinh khẩu thuật truyền trong núi, Nghệ Lịch Tỳ Mã Cung Tang dịch sang tiếng Anh, La Khởi An và Hoàng Anh Kiệt dịch sang tiếng Hán, NXB Mật Thừa, tháng 7.1994 sơ bản).
  93. Ảo cảnh giải thoát truyền dạy lúc lâm chung (Bảo Pháp Xứng dịch, Trung tâm phục vụ Từ Huệ Phật giáo tháng 7.1997 sơ bản).
  94. Bánh xe lợi khí (Pháp Hộ viết, pháp sư Vĩnh Khải và Mãn Hoa dịch, NXB Phật Quang, tháng 9.1994 sơ bản).
  95. Bồ Đề đạo thứ đệ cam lộ tạng (Da Tây Tôn Châu viết, Thích Pháp Âm dịch, Quỹ Giáo dục Phật Đà, tháng 5.1995 sơ bản).
  96. Tu đạo và cuộc sống (Ba Ba Cáp Lý Đạt Sĩ viết, Tịnh Đào dịch, NXB Yoga Trung Quốc, tháng 1.1985 tái bản).
  97. Lược sử Mật tông Tây Tạng (Vương Phó Nhân, NXB Phật Giáo, tháng 3.1985 sơ bản).
  98. Thế giới Phật giáo Tạng truyền (Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 viết, Trần Cầm Phú dịch, Công ty Văn hóa Lập Tự, tháng 8.1997 sơ bản).
  99. Lịch sử truyền thừa phái Tát Già (Thu Cát Thôi Khâm viết, Hoàng Anh Kiệt dịch, Công ty Văn hóa Đại Thủ Ấn, tháng 10.1994 sơ bản).
  100. Lịch sử Hát Mã Ba đời thứ 16 ở Tây Tạng (Hát Mã Thính Liệt viết, Tôn Nhất dịch, Hội in kinh tinh xá Đại thừa, tháng 2.1986 xuất bản).
  101. Tranh ký về sư Thổ Phồn (Tác giả Đái Mật Vi người Pháp, Cảnh Thăng dịch, NXB Văn hóa Thương Đỉnh, ngày 15.3.1994 sơ bản).
  102. Tây Tạng sinh tử thư (Sách Giáp viết, Trịnh Chấn Hoàng dịch, Công ty Văn hóa thầy Trương, tháng 4.1998, sơ bản in lần thứ 210).
  103. Đế Lạc Ba (Cống Hát, NXB Chính Pháp Nhãn, ngày 1.4.1998 sơ bản).
  104. Truyện Mã Nhĩ Ba (Tra Đồng Kiệt Bố viết, nhóm Trương Thiên Tỏa dịch, NXB Chúng Sinh, ngày 15.4.1998 sơ bản).
  105. Truyện ký về 84 nhà thành tựu (Ba Ác Vĩ Sắc viết, Từ Bảo Linh, Lã Mân Dung hợp dịch, Hội Phật học Nặc Nhĩ Vượng Biến Đức Lâm Tát Già, tháng 3.1996 sơ bản).
  106. Ghi chép về chuyến thăm pháp vương phái Tát Già (Tác giả Thiên Tân phái Tát Già, Hoàng Anh Kiệt dịch, Công ty Văn hóa Đại Thủ Ấn, tháng 10.1994 sơ bản).
  107. Thăm đại sĩ xứ tuyết – ngọn đèn sáng chỉ đường của Tạng Mật (Ngô Ngọc Thiên, Công ty Văn hóa Đế Thính, tháng 4.1996 xuất bản).
  108. Thậm thâm nội nghĩa (Pháp vương Đại Bảo đời thứ ba viết, Kháp Tháp giảng thuật, Hội in kinh Bảo Man, ngày 30.11.1997 xuất bản).
  109. Đại thủ ấn (Kháp Tháp, Trung tâm Pháp luân Cát Cử Hát Mã Đài Bắc ấn hành, không ghi năm tháng).
  110. Người nữ chứng ngộ (Kháp Tháp giảng thuật, Hội in kinh Bảo Man, ngày 1.11.1995 xuất bản).
  111. Tứ pháp Cương Ba Ba (Kháp Tháp giảng thuật, Hội in kinh Bảo Man, tháng 1.1997 sơ bản).
  112. Ghi chép sơ lược về Phật giáo Tây Tạng (Pháp sư Hằng Diễn, NXB Phật Giáo, tháng 8.1994 sơ bản).
  113. Đạo giải thoát của Mật thừa, truyện Nhân ba thiết Kháp Lô (Kalu) (Tác giả Mạch Khắc Lưu Đức (McDonald), Từ Tiến Phu dịch, Trung tâm Lợi sinh Phật giáo Đài Bắc).
  114. Ghi chép về khai thị của thượng sư Liên Hoa Kim Cương Tạng (Ngô Nhuận Giang giảng, Hội in kinh Kim Cương tinh xá Nặc Na, ấn hành năm 1980, tập 3 bản thứ năm).
  115. Ghi chép về khai thị của thượng sư Liên Hoa Kim Cương Tạng (Ngô Nhuận Giang giảng, Hội in kinh Kim Cương tinh xá Nặc Na, ấn hành năm 1981, tập 4 bản thứ nhất).
  116. Ghi chép về khai thị của thượng sư Liên Hoa Kim Cương Tạng (Ngô Nhuận Giang giảng, Hội in kinh Kim Cương tinh xá Nặc Na, ấn hành năm 1982, tập 5 tái bản).
  117. Pháp ngữ của Phật sống Nặc Na thượng sư Kim Cương (Dựa theo bộ tái bản Tinh xá Nặc Na Thượng Hải năm 1941, in lại năm 1975 tập 5 bản thứ ba).
  118. Mộc Ân Lục (Lâm Ngọc Đường, xuất bản 1985).
  119. Mật điển pháp tu Tạng Mật “quyển 1” (Lã Thiết Cương biên soạn, NXB Hoa Hạ Bắc Kinh, tháng 1.1995 sơ bản).
  120. Mật điển pháp tu Tạng Mật “quyển 2” (Lã Thiết Cương biên soạn, NXB Hoa Hạ Bắc Kinh, tháng 1.1995 sơ bản).
  121. Mật điển pháp tu Tạng Mật “quyển 3” (Lã Thiết Cương biên soạn, NXB Hoa Hạ Bắc Kinh, tháng 1.1995 sơ bản).
  122. Mật điển pháp tu Tạng Mật “quyển 4” (Lã Thiết Cương biên soạn, NXB Hoa Hạ Bắc Kinh, tháng 1.1995 sơ bản).
  123. Mật điển pháp tu Tạng Mật “quyển 5” (Lã Thiết Cương biên soạn, NXB Hoa Hạ Bắc Kinh, tháng 1.1995 sơ bản).
  124. Tập luận Phật giáo Tây Tạng (Ủy ban biên tập tùng thư Tây Tạng, NXB Văn Thù, tháng 2.1987 sơ bản).
  125. Nghiên cứu kinh Phật giáo Tây Tạng (Ủy ban biên tập tùng thư Tây Tạng, NXB Văn Thù, tháng 4.1987 sơ bản).
  126. Kinh Kim Cương trong Hoa Nghiêm thượng phẩm (Lý Thiện Đơn, Quỹ Văn hóa Giáo dục thế giới Phật Thừa, tháng 3.1996 sơ bản).
  127. Thích luận về mười bốn đọa giới căn bản của Mật tông (Tào Ba Gia Thần, Hội Phật học Nặc Nhĩ Vượng Biến Đức Lâm Tát Già, tháng 2.1997 xuất bản).
  128. Mạn đàm Mật tông (Đàm Tích Vĩnh, NXB Toàn Phật, tháng 8.1997 xuất bản).

Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg