The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  3. Phật giáo Tạng truyền, Dục kinh Ấn Độ và tình dục Tantra

 PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀN, DỤC KINH ẤN ĐỘ VÀ TÌNH DỤC TANTRA [1]

Tantra bắt nguồn từ Phệ Đà/ Ấn Độ giáo, khi đó phổ biến nhất là ở Bắc Ấn Độ. Nhưng sau này nó đã kết hợp làm một với tôn giáo bản địa phía Nam Ấn Độ như tôn giáo sùng bái nữ thần Kali.

Có một phân nhánh đặc biệt của Tantra truyền vào tôn giáo hỗn hợp của Tây Tạng. Tôn giáo hỗn hợp đó có lúc được gọi là Phật giáo Tạng truyền, lại có tên là Lạt Ma giáo…

…Có một bức tranh Đường Khải lớn (hội họa tôn giáo) của Phật giáo (ở đây chỉ Phật giáo Tạng truyền) hiển thị 108 vị Bồ Tát…Mà trên đùi của mỗi vị Bồ Tát đều ôm lấy một người con gái khỏa thân – tức chính là phối ngẫu nữ thần của ông ấy, đang quan hệ tình dục [2] với ông ta…

Nói một cách chính xác hơn, tôn giáo mà các tín đồ Phật giáo Tạng truyền đang tin theo có vẻ bề ngoài là của Phật giáo, nhưng nội hàm lại là tôn giáo vốn dĩ của họ với bản chất là Đại tự nhiên và tình dục [3]. Họ đã tìm được biện pháp để khiến cho những thứ như “Không”, “vô dục” mà Phật giáo chính thống đang tìm kiếm kết hợp dung hòa với thứ tôn giáo sùng bái tình dục mà họ lưu truyền lại từ xưa [4]. Tại Tây Tạng trước kia (chỉ thời gian trước khi Đảng Cộng sản Trung Quốc xâm nhập Tây Tạng), các đạo trường của Phật giáo Tây Tạng sẽ tuyển chọn những thiếu nam chừng 17 tuổi, dạy họ cùng với các nữ thầy giáo tham gia huấn luyện tình dục Tantra đủ 2 năm (các nữ thày giáo thông thường là hơn 30 hoặc hơn 40 tuổi, dưới lớp đồng thời có đến mấy cậu thiếu niên – do đó, để được huấn luyện tình dục Tantra là một sự may mắn). Hai năm sau, dần dần để họ chuyển hướng từ tình dục xác thịt sang tình dục tâm linh, để họ có thể thông qua quán tưởng, ngồi thiền cũng có thể đạt được lạc thú tình dục và tâm linh[5].

Ngày nay, thực tu tình dục Tantra và cao trào tâm linh mà các tín đồ sau này dần dần thay thế cho tình dục xác thịt – Niết Bàn – vẫn tồn tại, hơn nữ tình dục Tantra ở xã hội phương Tây có rất nhiều tín đồ, fan hâm mộ, bao gồm cả Sting, Richad Gere và cả một số tăng nhân ở trong các tự viện vùng Tây Tạng xa xôi vẫn cẩn thận ẩn dật để tu tình dục song thân pháp [6]. (hết trích)

Tác giả có nhắc đến chuyện “Hai năm sau, dần dần để họ chuyển hướng từ tình dục xác thịt sang tình dục tâm linh”, điều này cũng không hẳn như thế, bởi vì tình dục xác thịt thực sự mới là mục đích cốt lõi của Lạt Ma giáo, cũng chính là nội hàm tu hành thực chất của các Lạt Ma. Cho nên, bắt buộc phải có bạn tình, đối tượng tình dục thực sự, mới có thể giúp cho các Thượng sư Lạt Ma đạt được mục đích tu hành tình dục. Vấn đề này trong Mật tục của Phật giáo Tạng truyền có rất nhiều ghi chép tương tự. Chúng ta hãy xem các Thượng sư trong Lạt Ma giáo nói thế nào? Chúng ta xem trong sách của Thượng sư Trần Kiện Dân, nhà đại tu hành của Phật giáo Tạng truyền đương đại có thể phát hiện ra những câu nói xác thực lộ rõ xương cốt. Trần Kiện Dân nói:

Anh không những chỉ dùng quán tưởng mà còn sử dụng đến những người phụ nữ cụ thể, thực sự. Như thế chính là “quán thứ 3”. Tại sao lại phải dùng đến phụ nữ thực sự mà không phải chỉ có quán tưởng? Bởi vì điều kiện vật chất của anh ta trong quán tưởng (chú thích: điều kiện vật chất là chỉ tinh dịch xuất ra và sự giao hợp của hai cơ quan sinh dục) không đủ. Dùng cái thực thể (chú thíchMinh Phi người thật) thì điều kiện vật chất mới đầy đủ, nghĩa là anh ta có đủ vốn rồi. Có cái vốn để được thăng hoa. Có cái khoản vốn này thì sau đó mới là tu thực sự, mới thực sự có trí tuệ. Ví dụ anh quán tưởng cái đó của phụ nữ, anh thậm chí quán đi quán lại, cái ấy của anh đều không cứng lên được. Anh cần phải có một người phụ nữ thực sự, thì nó mới cứng lên, anh mới làm được, nó mới phát sinh tác dụng thực sự (chú thích: là cái tác dụng có thể làm tình thực sự để xuất tinh để làm cam lộ mật quán[7].(hết trích)

Vậy quan niệm rõ ràng như thế chỉ có Trần Kiện Dân nói thôi sao? Kỳ thực không phải vậy. Chúng tôi đã thấy Đạt Lai Lạt Ma cũng nói như thế. Ông ta đã nói trong sách của mình như sau:

Trong Đàn Đa La tập hội bí mật, tại chương tiết liên quan đến việc hòa hợp với Minh Phi, nói rằng nếu như hành lạc Không song vận với Minh Phi thực thể (người thật) mới có thể đạt được tu hành thân Mạn trà la thực sự, nếu như chỉ hành lạc Không song vận với Minh Phi trong quán tưởng (tưởng tượng) thì thành tựu của nó không lớn [8].(hết trích)

Cái nội dung lấy hành vi tình dục để làm tu hành này chẳng lẽ chỉ có thời hiện đại mới có ư? Kỳ thực, thời xưa Lạt Ma giáo (Phật giáo Tạng truyền) đã như vậy rồi, thậm chí quy định có khoa trương hơn. Chúng ta hãy xem vị Tổ sư thời cổ xưa của Phật giáo Tạng truyền, ông Tông Khách Ba hiệu xưng là “Chí Tôn” nói gì. Ông ta đã viết trong sách “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” quyển thứ 13 thế này:

Trước hết cống vật, thỉnh bạch rồi lấy màn trướng giăng ra ngăn cách thành bình phong, đệ tử phải hiểu rõ thầy là Kim Cương Tát Đỏa, cần sử dụng Trí Tuệ Mẫu (nữ song tu – Phật Mẫu) đã thụ đủ giới Tam Muội Da (điều kiện để song tu), chức năng của bộ phận sinh dục bình thường vô hoại, là các đồng nữ tuổi đủ 12 đem phụng hiến cho Sư trưởng. Như cuốn “Đại ấn không điểm” phần thứ 2 viết: “Mặt đẹp mắt dài, dung mạo tuyệt diệu trang nghiêm, tuổi từ mười hai hoặc mười sáu, nếu khó kiếm quá thì có thể chấp nhận lấy người hai mươi tuổi, trên hai mươi là dư ấn (đối tượng song tu thứ cấp), sẽ khiến Tất Địa lìa xa (không đạt được thành tựu). Lấy chị em hoặc con gái của mình, hoặc lấy vợ của mình đem hiến cho Sư trưởng[9].

Theo lời nói trong đoạn văn trên của Tông Khách Ba, chúng ta có thể biết được rằng ông ta nhấn mạnh Lạt Ma là Vô thượng Yoga phải quan hệ tình dục, cùng tu Song thân pháp với phụ nữ thật, chứ không phải là người phụ nữ trong quán tưởng (tưởng tượng). Hơn nữa còn không phải chỉ với một người con gái mà đồng thời cần dùng đến mấy người con gái. Thực hành với nhiều nam nữ tạp giao, hoàn thành tình dục Tantra xong thì có thể lấy cái thứ có tên là Hồng-Bạch Bồ Đề Tâm làm Cam Lộ để thực hiện Mật quán. Kỳ thực, “Hồng, Bạch Bồ Đề Tâm” chính là chất hỗn hợp dâm dịch của Lạt Ma bắn vào trong âm hộ người con gái khi hai bên nam nữ đều đạt đến cực khoái tình dục. Thượng Sư sẽ lấy cái chất đó để dùng vào việc quán đỉnh bí mật. Các đệ tử Mật tông khi nhận quán đỉnh còn phải để trên đầu lưỡi thưởng thức một hồi rồi nuốt xuống. Chúng ta hãy xem Tông Khách Ba viết thế này trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”:

Để làm Mật quán đỉnh sau (quán đỉnh lần thứ tư) theo sự truyền giảng của kinh điển, Sư trưởng cùng 9 Minh (Phi) tuổi từ 12 đến 20 tiến hành song tu đạt đến cực khoái tình dục [10], lấy giống [11] Kim Cương [12] rót vào miệng đệ tử [13], để quán đỉnh cho họ. Đệ tử nhận quán đỉnh lần thứ ba trước đó thì phải cùng một Minh (tức Minh Phi[14] giao hợp thụ nhận diệu hoan hỉ. Sau đó lại cùng với 9 Minh thực hành song tu đạt đến cực khoái tình dục [15], cùng họ từng người sinh diệu hỉ [16]….[17] (hết trích)

Cho nên có thể nói, Lạt Ma giáo (Phật giáo Tạng truyền) ngay từ khi bắt đầu đã lấy quan hệ tình dục làm trọng tâm tu hành, hơn nữa còn tiến hành làm tình tập thể 1 nam 9 nữ, thậm chí thầy trò 2 nam cùng luân phiên làm tình tập thể với 9 người con gái trẻ. Như thế, Thượng Sư Lạt Ma rõ ràng chính là chuyên gia quay phim sex rồi.

 


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg