The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  3. Phật giáo Tạng truyền, Dục kinh Ấn Độ và tình dục Tantra - 2

Trong lòng các Lạt Ma, từ cổ chí kim đều cho rằng: Tình dục là món quà tốt nhất mà các Lạt Ma Thượng Sư có thể có được mà không dựa vào cái gì! Không chỉ khu vực Trung Quốc xưa nay như thế mà ở các khu vực Âu Mỹ hiện nay cũng thế. Chúng ta xem trong chuyên mục “Phỏng vấn số - Encuentros digitales” của tờ báo lớn thứ 2 ở Tây Ban Nha El Mundo, có một bài viết phỏng vấn Lạt Ma Ole với tiêu đề là “Lama Ole Nydahl” [18], ngày phỏng vấn là 27/5/2004 (27 de Mayo de 2004), trong đó giới thiệu về Lạt Ma Ole thế này:

Ông ấy là một trong số ít người phương Tây được coi là Lạt Ma và Thượng Sư thiền định của Cát Mã Cát Cử phái, một trong những tông phái chủ yếu của Phật giáo Tây Tạng. Ông ấy đã xây dựng nên hơn 500 trung tâm Phật giáo (chú thích: Phật giáo Tạng truyền) trên toàn thế giới, đồng thời sắp tới sẽ xây dựng thêm một trung tâm mới ở Velez Malaga Tây Ban Nha, gọi là Karma Ghen[19]

Trong cuộc phỏng vấn, phóng viên có hỏi Lạt Ma Ole danh tiếng: “Lạt Ma Ole, Phật giáo (Tạng truyền) có quan điểm thế nào về tình dục?[20]. Lạt Ma Ole đáp: “Tình dục được coi là một món quà [21]”.

Từ nội dung phỏng vấn, chúng ta có thể biết rằng: Đối với các Lạt Ma, tình dục và cơ quan sinh dục là món quà tốt nhất mà họ có được mà không dựa vào cái gì. Họ cho rằng, các nữ tín đồ quan hệ tình dục với họ là lẽ đương nhiên. Do đó, thông qua lời nói với các nữ tín đồ trẻ đẹp, tiết lộ thông tin khát vọng tu luyện tình dục song thân pháp. Hiện nay, không chỉ những khu vực cởi mở tình dục như Âu Mỹ là như thế mà ở những khu vực người Hoa tôn sùng luân lý đạo đức, các Lạt Ma cũng dần dần ngầm bày tỏ thái độ một cách không hề kiêng kỵ. Dưới đây, chúng tôi xin trích lục một bản tin tháng 8/2010 xảy ra tại Đài Loan ở Châu Á. Nội dung bài viết này như sau:

 


[1] Nguyên văn tư liệu tiếng Anh xem chi tiết tại phụ lục 4. Nguồn tư liệu lấy từ http://www.chinaexpat.com/2007/03/26/tibetan-buddhism-kama-sutra-and-tantric-sex.html/

[2] Tượng song thân của Phật giáo Tạng truyền đều là totem nam nữ giao hợp. Độc giả có thể xem thêm các bức tranh tượng song thân tình dục Tantra Lạt Ma tại Phụ lục 12 A của cuốn sách này là biết.

[3] Tác giả đã chỉ rõ được rằng Phật giáo Tạng truyền là tôn giáo có bản chất là “tình dục”.

[4] Kỳ thực đây là cách nói của Phật giáo Tạng truyền (Lạt Ma giáo), trên thực tế hoàn toàn trái ngược với giáo lý của Phật giáo truyền thống, chỉ là sử dụng danh tướng (tên gọi) giống nhau mà thôi.

[5] Kỳ thực dùng phương thức quán tưởng không phải là phương pháp tu hành chính thức của các Lạt Ma. Thực chất, tình dục mới là phương pháp để họ đạt được mục đích, như Đạt Lai Lạt Ma nói trong sách: “Căn cứ giải thích của Mật tục, trải nghiệm về Lạc có được từ 3 tình huống: 1 là xuất tinh, 2 là tinh dịch chuyển động trong mạch, 3 là thứ Lạc vĩnh hằng bất biến. Tu hành Mật tục lợi dụng 2 loại Lạc sau để chứng ngộ Không tính. Bởi vì phương pháp lợi dụng Lạc để chứng ngộ Không tính rất quan trọng, cho nên chúng tôi phát hiện ra rằng Phật mà Vô thượng Yoga tục quán tưởng đều là đang giao hợp với Minh Phi”. (Xem sách “Đạo tu hành Phật giáo Tây Tạng” trong Đạt Lai Lạt Ma văn tập (3) do Đạt Lai Lạt Ma viết, Trịnh Chấn Hoàng dịch, nhà xuất bản Tuệ Đuốc, in lần 1 bản thứ nhất tháng 3/2001, trang 85).

[6] Trên thực tế thì tất cả các tự viện của Phật giáo Tạng truyền đều đang tu luyện pháp môn này. Bởi vì Thượng Sư và Minh Phi hợp tu tình dục song thân là điều không thể chấp nhận được trong xã hội người Hoa trọng thị luân lý, do đó các Thượng sư Lạt Ma đặc biệt dặn dò cần phải tu song thân pháp một cách ẩn dật, bí mật. Ví dụ, Đạt Lai Lạt Ma cũng viết trong sách thế này: “Tu tập Mật giáo buộc phải ẩn mật” (Xem sách “Tình yêu viên mãn” của Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 viết, Hoàng Khải Lâm dịch, Công ty hữu hạn xí nghiệp thời báo - văn hóa - xuất bản, in lần 1 bản thứ nhất vào 1/9/1980, trang 149).

[7] Theo cuốn “Khúc quăng trai toàn tập” (1), do Trần Kiện Dân viết, Từ Cần Đình biên soạn, Nhà xuất bản lục âm hữu thanh Phổ Hiền, xuất bản ngày 10/7/1991, trang 238.

[8] Xem sách “Hỷ lạc và Không vô” của Đạt Lai Lạt Ma, nhà xuất bản Úm A Hồng, in lần 1 bản thứ nhất năm 1998, trang 137 – 138.

[9] Xem sách “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” của Tông Khách Ba, Pháp sư Pháp Tôn dịch, Nhà xuất bản Diệu Cát Tường, bản thứ nhất, tháng 6/1986, trang 376.

[10] Cũng có nghĩa là để Phật sống-Lạt Ma-Sư trưởng cùng 9 vị Minh Phi bạn tình, mỗi người ở một độ tuổi khác nhau từ 12 đến 20, lần lượt cùng Lạt Ma Thượng Sư thực hành tình dục Tantra, rồi đồng thời tiến vào trong cực khoái tình dục đệ tứ hỷ, đến giai đoạn đó thì quán Lạc Không bất nhị, sau đó Lạt Ma Thượng Sư lại lần lượt xuất tinh vào âm hộ của những Minh Phi này, rồi sau đó thu thập lại để sử dụng tiếp.

[11] Có đầy đủ Hồng Bồ Đề và Bạch Bồ Đề của đủ 9 vị Minh Phi – tức chất dâm dịch hỗn hợp sau khi Thượng Sư và Minh Phi làm tình – có đủ con giống của hai bên nam nữ.

[12] Mật tông Phật giáo Tạng truyền gọi cái chất hỗn hợp dâm dịch của nam nữ đó là Kim Cương Bồ Đề Tâm, chẳng qua là lấy cắp danh tướng (ngôn từ) của Phật pháp để dùng mà thôi.

[13] Làm đệ tử của Lạt Ma trong Phật giáo Tạng truyền đương nhiên phải nuốt thứ dâm dịch buồn nôn ghê tởm này, quả đúng là không thể tưởng tượng nổi.

[14] Đệ tử phải cùng một trong 9 vị Minh Phi vừa làm tình với Thượng Sư tiếp tục giao hợp.

[15] Người sau tức là đệ tử cùng 9 vị Minh Phi song tu cùng đạt đến cực khoái tình dục, như thế gọi là “Minh Phi đẳng chí”.

[16] Tức là Thượng Sư cùng 9 vị Minh Phi lần lượt làm tình từng người một, rồi sau đó xuất tinh vào từng người, tiếp theo vét lấy hỗn hợp dâm dịch của Thượng Sư Lạt Ma và 9 vị Minh Phi trong âm hộ họ, tập hợp lại thành chất gọi tên là Cam Lộ để tiến hành quán đỉnh (thăng chức) cho đệ tử.

[17] Xem sách “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” của Tông Khách Ba, Pháp sư Pháp Tôn dịch, Nhà xuất bản Diệu Cát Tường, bản thứ nhất, tháng 6/1986, trang 399-400.

[19] Nguyên văn là: “Es uno de los pocos occidentales considerado Lama y maestro de meditación en la tradición Budista Karma Kagyu, una de las principales escuelas del Budismo tibetano. El Lama Ole ha establecido ya más de 500 centros budistas en el mundo y va a inaugurar un nuevo centro Karma Ghen en Vélez Málaga…”

[20] Nguyên văn là: "Lama Ole: ¿Como vive el budismo el mundo del sexo?"

[21] Nguyên văn là: “El sexo se ve como un regalo, como un obsequiio.

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 7968


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg