The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  4. Nữ minh tinh bị chụp ảnh trộm thì làm thế nào? Nhân Ba Thiết đáp: “Dùng lòng từ bi để đối đãi lại”.

 NỮ MINH TINH BỊ CHỤP ẢNH TRỘM THÌ LÀM THẾ NÀO?

NHÂN BA THIẾT ĐÁP: DÙNG LÒNG TỪ BI ĐỂ ĐỐI ĐÃI LẠI

 

(Báo Liên hợp/ Phóng viên: Vương Cảnh Tân/ Đưa tin từ Đài Bắc)

01h58’ ngày 26/08/2010

Đại sư của Phật giáo Tạng truyền Hạ Bạc Nhân Ba Thiết hôm qua đã đến Đài Loan để tuyên truyền cho hoạt động diễn thuyết miễn phí tại Đài Bắc, toàn bộ chương trình sử dụng tiếng Anh để khai thị, tiến hành cuộc đối thoại tên là “Học và tu luyện cách yêu” với Đào Tinh Oánh.

Về vấn đề nữ quyền của Đào Tử Tê Lợi, Hạ Bạc Nhân Ba Thiết đã trả lời một cách khéo léo đầy thiền ý, đặc biệt còn đề nghị Đào Tử rộng lượng cho cánh săn ảnh (paparazzi) chụp trộm chỗ nhạy cảm, “để lộ ra bông lotus (hoa sen) xinh đẹp! [1]”. Đào Tử bị chạm nọc, kêu lên “Hoa sen còn chưa bón phân, bảo dưỡng, không dám thu vào ống kính đâu!”.

Đào Tử trước rừng truyền thông tại hiện trường, hỏi: “Nếu như đám paparazzi vì công việc mà phải chụp trộm đáy quần của nữ nghệ sĩ thì nên xử lý thế nào?”.

Hạ Bạc Nhân Ba Thiết trả lời khéo léo: “Nên đối xử bằng lòng từ bi. Cánh paparazzi nếu chụp được đáy quần thì cũng là vì công việc mà thôi, đâu cần phải quá tự mãn như thế. Còn bị chụp trộm, cũng có thể đáp lại bằng lòng từ bi, “để lộ ra lotus (hoa sen) cũng rất đẹp mà![2]”. Câu trả lời khiến cho Đào Tử mặt hoa thất sắc, cả hội trường cười rầm lên.

Trước các sự kiện ngoại tình “dạy bù về nhân sinh” đang hót hòn họt hiện nay, Hạ Bạc Nhân Ba Thiết cũng nói thẳng: “Trên thế gian không có mối quan hệ vĩnh hằng”. Ông ta lấy chuyện con bò cạp độc để tỷ dụ chuyện ngoại tình, “có người có thể chơi đùa con bò cạp trên lòng bàn tay, có người lại bị nó chích, nếu như có đủ tự tin có thể nắm chắc (kiểm soát) mọi việc thì cũng cần phải xem tạo hóa (số mệnh) của người đó”. (hết trích)

Chả trách Lạt Ma chính là người muốn dụ dỗ các nữ tín đồ cùng tu song thân pháp. Cho nên, chúng ta thường thấy xảy ra rất nhiều chuyện Lạt Ma xâm hại tình dục nữ tín đồ. Bởi vì họ từ đầu đến cuối đều muốn tu tình dục Tantra. Sau đó lại dùng những thuật ngữ tôn giáo đường hoàng để làm lý do nói cho các tín đồ, điều này hoàn toàn không liên quan gì đến phép tu hành Tam thừa Bồ Đề của Phật giáo chính thống, kết quả chỉ là một cuộc thi tình dục mà thôi! Chúng ta hãy xem tiếp bài giảng trong một cuốn sách khác của Đạt Lai Lạt Ma để chứng minh điểm này. Đạt Lai Lạt Ma nói:

Đối với các tín đồ Phật giáo, nếu như người tu hành có một trí tuệ và từ bi kiên định, thì có thể vận dụng tình dục vào trong đạo tu hành. Bởi vì điều này có thể tạo ra sức chuyên chú mãnh liệt cho Ý thức, mục đích là để hiển hiện và kéo dài cái tầng thứ sâu hơn của Tâm (trước đó có miêu tả về quá trình chết), là nhằm vào việc dùng sức mạnh để tăng cường hóa sự lĩnh ngộ Không tính. Nếu không thì chỉ là tình dục, hoàn toàn không liên quan gì đến tu hành tâm linh. Khi một người tu hành trên phương diện động cơ và trí tuệ đã đạt đến giai đoạn rất cao, thì dù là lưỡng tính tương giao hoặc ta thường vẫn gọi là tình dục, cũng không thể tổn hại hành vi thuần tịnh của người đó. Hành giả Yoga đã đạt mức độ rất cao trên đạo tu hành thì hoàn toàn có đủ tư cách tiến hành song tu, mà người xuất gia có năng lực như vậy vẫn có thể duy trì chắc giới luật của anh ta [3]. (hết trích)

Qua đây chúng ta có thể xác định được rằng Lạt Ma giáo (Phật giáo Tạng truyền) kỳ thực chính là tôn giáo lấy tình dục Tantra làm nòng cốt, mục đích chính chỉ là muốn tu song thân pháp mà thôi. Chúng ta hãy xem tiếp xem Đạt Lai Lạt Ma nói thế nào khi đối diện với đoàn thăm viếng của Phật giáo Trung Quốc. Dưới đây là trích lục bài báo “Hỏi đáp giữa Đạt Lai Lạt Ma và đoàn thăm viếng của Phật giáo Trung Quốc”:

Tương tự, có lúc lòng tham trong một tình huống đặc biệt nào đó, có thể chuyển thành Bồ Đề, cho nên lúc quán tưởng Bản Tôn, đôi lúc có thể nhìn thấy Bản Tôn của nữ tướng. Còn về uống rượu, ăn thịt và tình dục nam nữ, những điều này chỉ ở bậc Vô thượng Yoga mới giảng đến, ở ba bộ khác không nói tới. Trong Vô thượng Yoga có nói đến vấn đề uống rượu, ăn thịt, mà những điều này có liên quan đến tình dục nam nữ. Trong đó nói đến vấn đề chủ yếu nhất, chính là vấn đề tình dục nam nữ, cũng chính là vấn đề Song thân. Với những người thực hành Yoga, nếu như anh ta là đàn ông, người mà anh ta cần phải nương tựa đó chính là Phật Mẫu. Còn nếu người thực hành Yoga mà phụ nữ, thì người mà cô ấy cần nương tựa đó chính là Phật phụ. Cũng có nghĩa là Phật Mẫu và Phật phụ phải nương tựa lẫn nhau. Vì sao thế? Bởi vì, sau khi trải qua sự kết hợp thân xác, cái Ý thức và khí lưu thô lậu sẽ dần dần hoãn hòa, lắng xuống, dần dần biến mất! Và để đạt được mục đích cuối cùng này, anh ta buộc phải tạo ra Đại lạc mới có cách. Để có thể duy trì được Đại lạc này một cách vĩnh hằng, thì tinh dịch của anh ta tuyệt đối không được rớt ra ngoài, một giọt cũng không được rớt ra ngoài. Anh ta sẽ có cách để sử dụng tinh dịch này! Giả sử khi anh ta đang thực hành Song thân, xuất tinh ra xong thì anh ta phải có cách để thu lại đống tinh dịch đó không sót một giọt [4], nếu không sẽ là vi phạm Phạn hạnh, cũng chính là phạm vào đại tội [5]. (hết trích)

Từ nội dung tin bài của những sách báo này có thể biết được một sự thật hết sức rõ ràng – ý đồ của các Lạt Ma trong Lạt Ma giáo (Phật giáo Tạng truyền) chính là muốn có tình dục miễn phí. Nhưng các Lạt Ma này lại thêu dệt thêm rất nhiều lý do hoang đường, khiến cho rất nhiều người vì mê tín và tin nhầm. Tôn giáo như thế sẽ gây ra những ảnh hưởng thế nào đối với xã hội chúng ta?

Chúng ta hãy xem tiếp trang mạng nước ngoài, xem những bài viết liên quan giới thiệu Phật giáo Tạng truyền truyền dạy các Lạt Ma và các tín đồ, học viên “có thể đạt được khai ngộ thông qua tình dục”, từ đó có thể tìm thêm được một số manh mối. Có một bài viết của tác giả tên là Jeff Hays đã tiết lộ sự thực Phật giáo Tạng truyền gắn liền với tình dục đồng thời chỉ ra được một số vấn đề xã hội đáng quan tâm thực sự. Jeff Hays là người Mỹ sinh ra ở bang California, hiện là thày giáo tiếng Anh ở Nhật Bản và cũng là nhà văn. Ông đã từng đi du lịch nhiều nơi ở Trung Quốc, đồng thời đem những gì mình nghe nhìn thấy đăng lên trang web. Mời độc giả xem bài viết của ông dưới đây:

 


[1] Cái gọi là “Hoa sen” của Lạt Ma trong Phật giáo Tạng truyền chính là cơ quan sinh dục nữ, tức âm hộ. Như học giả đã thuyết minh trong sách: Cùng với sự xuất hiện của Song thân pháp, thêm vào đó, phép tu này chỉ được thày trò đơn truyền, không tuyên giảng công khai, do đó, lại sinh ra một loạt những thuật ngữ bí mật mang tính tượng trưng, sử dụng khi tu tập. Ví dụ như lấy “Kim Cương” để biểu thị dương vật, lấy “Hoa sen” để ngầm chỉ âm hộ, lấy “Nhập tam muội da” để chỉ chuyện nam nữ…Phép tu song thân và tư tưởng Đại lạc có nguồn gốc từ Tính lực phái của Ấn Độ giáo”. (Theo “Nghệ thuật Mật tông của Phật giáo Tạng truyền” do Lý Dực Thành và Cố Thụ Khang biên soạn, nhà xuất bản Ngoại Văn (Bắc Kinh) xuất bản bản thứ nhất năm 1991, trang 94). Hình ảnh chi tiết xin xem thêm Totem tình dục sùng bái sinh thực khí của Lạt Ma trong Phụ lục 12B.

[2] Trong con mắt của Lạt Ma của Phật giáo Tạng truyền, cơ quan sinh dục nữ (âm hộ) chính là công cụ để họ tu hành. Chúng ta xem Lạt Ma nói thế nào? “Hành giả cần phải giống như Bản Tôn, đem Kim Cương (dương vật) của mình hóa thành Quang minh…(bỏ đoạn giữa)…sau đó hành giả cũng hóa Liên Hoa (âm hộ của Minh Phi) thành Quang minh, sau đó từ Quang minh sinh khởi 1 cái Tam biện hồng liên rỗng giữa”. (Theo cuốn “Cát tường thời luân lục tọa Thượng sư Yoga niệm tu giáo thụ” của Giáo sư Đan Tăng Cánh Lãng Nhân Ba La Tang Tưởng Bối, Đan Tăng Trác Tân dịch sang tiếng Hán, Công ty hữu hạn Bàn Dật xuất bản tháng 2/2008, trang 207-208).

[3] Theo cuốn “Bài giảng thứ nhất về tu hành” của Đạt Lai Lạt Ma, Đinh Nãi Trúc dịch, Công ty cổ phần hữu hạn xuất bản Tiên Giác, in lần thứ 7 bản thứ nhất tháng 5/2003, trang 177-178.

[4] Những lời nói trong phần này toàn là những lời nói láo, hoàn toàn không phù hợp với Phật pháp, ngay từ đầu đã bị các nhân sĩ trí thức công khai bác bỏ. Đạt Lai Lạt Ma nói sau khi xuất tinh có cách để thu hồi không thiếu một giọt đúng là tà thuyết. Chi tiết nội dung bài bác, xin xem thêm “Cuồng Mật và Chân Mật” tập 4 của Đạo sư Bình Thực, nhà xuất bản Chính Trí, trang 1330-1332, 1357-1358. Hoặc tham khảo Phụ lục 3 – Ví dụ về Song thân pháp của Đạt Lai trong cuốn “Bộ mặt của Đạt Lai Lạt Ma – Chơi hết nữ nhân trong thiên hạ”, nhà xuất bản Chính Trí, trang 173-177.

[5] Theo “Hỏi đáp giữa Đạt Lai Lạt Ma và đoàn thăm viếng của Phật giáo Trung Quốc” của Lý Thành Kỷ, Pháp Tấn ‘Lợi Sinh’ chùa Đạt Hương, Nguyệt san thứ nhất (kỳ 27) năm 1998, bản thứ 2.

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 7969


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg