The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  3. Tôi là nô lệ tình dục của Mật giáo Thản Đặc La (Tantra) -2

 Xem những tin bài này, chúng ta biết được bản chất của Phật giáo Tạng truyền (Lạt Ma giáo), chính là các Phật sống Lạt Ma Thượng Sư giả danh nghĩa tu hành nói là để gia trì, trên thực tế là muốn thực hành quan hệ tình dục với các nữ tín đồ, thậm chí thừa cơ để cưỡng hiếp. Thế nhưng những tin bài này cũng chỉ là phần nổi của tảng băng chìm của các vụ cưỡng hiếp của các Lạt Ma mà thôi, còn có rất nhiều sự việc và nội dung xâm hại tình dục của các Lạt Ma chưa bị phơi bày ra. Thử nghĩ xem, nếu bản thân chúng ta hoặc người thân chúng ta gần gũi với đám Lạt Ma thường tu Vô thượng Yoga luân tọa tạp giao, trừ chuyện bị xâm hại tình dục ra, còn có khả năng vì thế mà bị nhiễm các bệnh tình dục nguy hiểm đến tính mạng như giang mai, HIV… thì sao? Trong cuốn sách “Tự truyện của tướng quân Phùng Ngọc Tường” có nói đến thời kỳ đầu những năm Dân Quốc, các Phật sống, Lạt Ma của Phật giáo Tạng truyền (Lạt Ma giáo) vùng Mông Cổ, vì tu luyện song thân pháp mà nhiễm bệnh giang mai (syphilis) mà bị hoại tử mũi. Theo tướng quân Phùng Ngọc Tường thì:

Nói đến dân số, Mông Cổ vốn có 12 triệu người. Sau một thời kỳ dài bị Mãn Thanh thống trị, nay đã giảm xuống còn 500 ngàn người. Mãn Thanh lợi dụng các Lạt Ma để thống trị nhân dân Mông Cổ, phàm là những ai có 8 anh em thì 7 người đều phải làm Lạt Ma; người nào có 5 anh em, thì 4 người phải làm Lạt Ma; chỉ có 1 người có thể làm bình dân lấy vợ sinh con. Người nào làm Lạt Ma thì có vải sa-tanh hồng đỏ để mặc, lại có thể ngồi hưởng bổng lộc ưu hậu. Đàn bà con gái thì không có phúc làm Lạt Ma, nhưng lại rất khó tìm được phối ngẫu (chồng) cho mình, vì thế đều phải làm đối tượng tình dục của những người nội địa.

Bởi vì các quan lại văn võ và quân đội, thương nhân từ bản bộ nội địa đến, đều do đường xá xa xôi không thể mang thân quyến đi cùng, cho nên họ đều có thể tìm vợ bé tạm thời ở đây. Một mặt là 7, 8 người con trai Mông Cổ mới có một người lấy vợ, một mặt là 1 cô gái Mông Cổ lại có mấy người nội địa làm chồng tạm thời của cô ta, vì thế trên thực tế đã hình thành một xã hội loạn giao [36]. Đồng thời, chuyện vệ sinh nam nữ lại không được coi trọng, sau khi nhiễm phải bệnh lậu (gonorrhea), giang mai thì đành phải chiều theo tự nhiên thôi. Các Phật sống khi đó mắc bệnh giang mai đều bị lở loét, hoại tử mũi [37]. Nghe nói, kết quả kiểm tra hiện nay cho biết thanh niên Mông Cổ từ 17 đến 25 tuổi có đến 85% người mắc bệnh hoa liễu. Những người 25 tuổi trở lên thì tỷ lệ phần trăm đương nhiên lớn hơn. Hiện tượng này quả thực là đáng sợ, nếu như để mặc cho nó liên tục phát triển, thì sẽ có nguy cơ tuyệt diệt chủng tộc![38](hết trích)

Chúng ta có thể suy nghĩ một chút: Vụ án Lạt Ma của Phật giáo Tạng truyền mắc bệnh tình dục chỉ là vụ đơn lẻ hay sao? Kỳ thực không phải vậy. Các Lạt Ma tu luyện tình dục Tantra, việc họ mắc bệnh tình dục là rất phổ biến, chỉ có điều dân chúng thông thường không có thông tin để biết mà thôi. Chúng ta hãy xem một nguồn tư liệu khác - “Tưởng Kinh Quốc tự thuật”, để nói rõ thêm về vấn đề nghiêm trọng bệnh tình dục trong “thế giới tình dục” của các Lạt Ma:

Cuộc sống riêng tư của các Lạt Ma ở đó rất tệ. Ở đó, dường như gia đình nào cứ có 3 con trai thì nhất định phải đem một đứa đi làm Lạt Ma. Mà phụ nữ ở đó cho rằng quan hệ tình dục với Lạt Ma là một vinh dự, đồng thời cũng có thể chuộc được tất cả các tội ác nữa [39]. Cho nên, các Lạt Ma đó dường như ai cũng mắc bệnh giang mai [40].

Từ ví dụ này, chúng ta phát hiện ra rằng tình dục Tantra của Phật giáo Tạng truyền (Lạt Ma giáo) dường như không tránh khỏi dính dáng đến lây nhiễm bệnh tình dục. Có lẽ có người nghĩ rằng: Đây chỉ là chuyện xảy ra khi y học thời kỳ đầu của Trung Quốc chưa phát triển thôi chứ? Kỳ thực không phải thế. Các Lạt Ma tu luyện Vô thượng Yoga tình dục Tantra kỳ thực là muốn tạp giao với nhiều nữ tín đồ, hơn nữa những nữ tín đồ đã nhận Mật quán cũng không chỉ làm tình với một nam giới tu Mật tông bởi vì đó chính là giáo nghĩa của Yoga Tantra Mật tông. Do đó, bất kỳ người nào gần gũi họ mà tiếp nhận quán đỉnh bí mật thì việc mắc bệnh tình dục là vấn đề sớm muộn mà thôi. Chúng ta hãy xem một bài báo sự thật xảy ra ở một vùng có nền y học phát triển ở nước ngoài thời kỳ hiện đại để thuyết minh cho vấn đề chuyên tu song thân pháp mà mắc bệnh tình dục ở “thế giới tình dục” của Lạt Ma. Bài này đưa tin Thượng Sư Lạt Ma vì chuyên cần tu luyện song thân pháp mà mắc bệnh HIV [41].

 


[1] Nguyên văn bài báo bằng tiếng Anh, xem chi tiết tại Phụ lục 5. Nguồn tư liệu: http://www.independent.co.uk/arts-entertainment/i-was-a-tantric-sex-slave-1069859.html

[2] Chú thích: Minh Phi là bạn tình của Lạt Ma Thượng sư trong Phật giáo Tạng truyền. Đạt Lai Lạt Ma từng nói: “Như trên đã nói, phương thức tu căn bản Tâm có 3 loại: (1) Giải thích của Tân Dịch phái về “Tập hội bí mật”; (2) Theo thuyết pháp Không tướng của “Thời luân Mật tục”; (3) “Đại viên mãn pháp” của Ninh Mã phái. Theo Tân Dịch phái, khi tu chân ngôn bí mật đạt đến một trình độ nào đó, người tu có thể tu pháp môn đặc biệt, như sử dụng bạn tình, săn giết động vật…Tuy là mục đích sử dụng bạn tình, nhưng dễ giải thích thành một phương pháp dẫn tham dục nhập Đạo đồng thời là nhằm dẫn dụ khởi sinh Ý thức nhỏ bé chứng ngộ cái Không. Có điều việc săn giết động vật lại thể giải thích như vậy được”. (Xem “Tình yêu viên mãn” của Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, Hoàng Khởi Lâm dịch, Công ty hữu hạn sự nghiệp văn hóa Thời Báo, in lần 1 bản 1 ngày 01/09/1991, trang 322).

[3] Danh từ “Chân đất sét” đặc biệt dùng để ngầm chỉ người nhìn bề ngoài có địa vị cao quý, đạo mạo an nhiên, kỳ thực tàng ẩn những nhược điểm mà công chúng không dễ nhìn nhận ra hoặc bí mật không ai biết đến! Điều này cũng có nghĩa là địa vị của một người dù có thần thánh đến mấy, chỗ đứng cao đến mấy, nếu như đôi chân của ông ta lại được làm bằng đất sét thì sẽ rất dễ bị người ta đập nát. Sau khi đập nát thì đương nhiên sẽ không đứng vững nữa, nhất định phải rơi từ trên cao xuống, không còn thiêng liêng, không còn cao quý nữa.

[4] Phật giáo Tạng truyền đã thần cách hóa, thần thánh hóa cơ quan sinh dục nam nữ. Các Lạt Ma đều gọi dương vật là Kim Cương, gọi âm hộ là Liên Hoa (hoa sen), giống như nội hàm giáo lý trong Phật giáo Tạng truyền. Kỳ thực chỉ là tình dục xác thịt sùng bái cơ quan sinh dục nam nữ trong Dục giới mà thôi. Bởi vì cơ quan sinh dục nam nữ chỉ là bộ phận xác thịt về mặt cấu tạo sinh lý người, trong thực chứng của Phật giáo chính thống chẳng có gì gọi là thiêng liêng thần thánh cả.

[5] Tình dục Tantra lợi dụng bạn tình (gọi là Minh Phi, Phật Mẫu, Không Hành Mẫu) để tu song thân pháp là điều kiện tất yếu của Phật giáo Tạng truyền. Những bạn tình này bị lợi dụng triệt để không khác gì những nô lệ tình dục. Như Đạt Lai Lạt Ma nói: “…Theo Tân Dịch phái, khi tu chân ngôn bí mật đạt đến một trình độ nào đó, người tu có thể tu pháp môn đặc biệt, như sử dụng bạn tình, săn giết động vật…”. (Xem “Tình yêu viên mãn” của Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, Hoàng Khởi Lâm dịch, Công ty hữu hạn sự nghiệp văn hóa Thời Báo, in lần 1 bản 1 ngày 01/09/1991, trang 322).

[6] Lạt Ma, Thượng Sư, Phật sống của Phật giáo Tạng truyền thông thường khi đối ngoại đều tuyên xưng mình là những nhà đại tu hành đã cấm dục từ lâu, nhưng thực tế họ lại không ngừng tu luyện tình dục Tantra song thân pháp. Chỉ sau khi những vụ xâm hại tình dục của Lạt Ma vỡ lở ra thì lại nói “ông ta vẫn còn độc thân, chưa từng nói là mình đã cấm dục”, chẳng khác gì lời nói của người phát ngôn của họ sau vụ xâm hại tình dục của Sách Giáp Nhân Ba Thiết. Do đó, “trong ngoài bất nhất” đối với các Lạt Ma của Phật giáo Tạng truyền là một hành vi rất chính đáng.

[7] Những Lạt Ma này cũng giống như Kalu Lạt Ma, tin bài về chuyện tình dục, xâm hại tình dục của họ như cơm bữa, như chuyện của Ole Lạt Ma là một ví dụ tốt nhất.

[8] Đó là những lời nói bịp bợm của Lạt Ma Phật giáo Tạng truyền lợi dụng tâm lý mê tín của quần chúng, như các Lạt Ma Phật giáo Tạng truyền ai cũng đều nói mình là một vị Phật Bồ Tát nào đó chuyển thế đầu thai, kỳ thực không có bản chất công đức của Phật Bồ Tát, có thể thấy rõ họ chỉ là những kẻ phàm phu bình thường.

[9] Bởi vì Phật giáo Tạng truyền vẫn chỉ là đoàn thể lấy “Lạt Ma, tình dục” làm nòng cốt, cho nên cuốn sách này mới lột tả chân tướng này, đặt tên sách là “Thế giới tình dục của Lạt Ma”.

[10] Traveller in Space là từ dịch sang tiếng Anh của từ Dakini tiếng Tạng. “Dakini” có nghĩa là Không Hành Mẫu. Danh từ này xem ra có vẻ có ý thơ, nhưng thực chất chẳng qua lại chỉ người con gái mà các Lạt Ma dùng làm công cụ tình dục trong song tu pháp, nói thẳng ra là nô lệ tình dục của các Lạt Ma.

[11] Không chỉ Kalu Nhân Ba Thiết mới nói vậy, Pháp vương tối cao của Phật giáo Tạng truyền Đạt Lai Lạt Ma cũng yêu cầu tu hành bằng “bạn tình”. Đạt Lai Lạt Ma nói: “Theo Tân Dịch phái, tu chân ngôn bí mật đến một trình độ nào đó, người tu sẽ phải thực hiện phép tu đặc biệt, như sử dụng bạn tình, đi săn…Tuy là mục đích sử dụng bạn tình, nhưng không khó để giải thích là để đưa Dục vào Đạo và nhằm dẫn xuất (tu đắc) cái Ý thức chứng ngộ cái Không nhỏ bé”. (Trích từ “Từ bi và Trí kiến” của Đạt Lai Lạt Ma, La Tang Gia Thác – nhà của trẻ em Tây Tạng, in lần 3 bản sửa đổi tháng 3/1997, trang 246).

[12] Bất kể là nhiều nam một nữ hay nhiều nữ một nam, thì cũng đều không phải là phương pháp tu hành của Phật giáo mà là phương thức tạp giao của nhân luân thế tục. Tổ sư của Phật giáo Tạng truyền – Tông Khách Ba hiệu xưng là Chí Tôn – trong trước tác của mình đã nói về cái kiểu tu hành tạp giao này. Tông Khách Ba nói: “Để làm Mật quán đỉnh sau (quán đỉnh lần thứ tư) theo sự truyền giảng của kinh điển, Sư trưởng cùng 9 Minh (Phi) tuổi từ 12 đến 20 tiến hành song tu đạt đến cực khoái tình dục” (Chú thích: Có nghĩa là buộc phải để cho Phật sống Lạt Ma Sư Trưởng cùng 9 vị Minh Phi bạn tình tuổi đời khác nhau từ 12 đến 20, lần lượt giao hợp cùng tiến vào cực khoái tình dục đệ tứ Hỷ và quán tưởng Lạc Không bất nhị, sau đó lần lượt xuất tinh vào âm hộ từng Minh Phi rồi thu gom lại), cụ chủng (Chú thích: như thế là có đầy đủ Hồng Bồ Đề, Bạch Bồ Đề của 9 vị Minh Phi – tức dâm dịch của Thượng Sư và 9 vị Minh Phi sau khi làm tình – có đầy đủ hạt giống của hai bên nam nữ), Kim Cương (Chú thích: Mật tông nói dâm dịch này là Kim Cương Bồ Đề Tâm, là ăn cắp danh tướng của Phật pháp chính thống), rót vào miệng đệ tử, để quán đỉnh cho họ. Đệ tử nhận quán đỉnh lần 3 trước đó thì phải cùng một Minh (Phi) (Chú thích: Một trong số 9 vị Minh Phi đó) giao hợp thụ nhận diệu hoan hỉ. Sau đó lại cùng 9 Minh (Phi) thực hành song tu đạt đến cực khoái tình dục (Chú thích: Sau đó đệ tử cùng 9 vị Minh Phi song tu đạt đến cực khoái tình dục, gọi là “cửu Minh đẳng chí”) cùng họ từng người sinh diệu hỉ … (Chú thích: Tức Lạt Ma và 9 vị Minh Phi lần lượt hành dâm, xuất tinh và thu lấy dâm dịch hỗn hợp với 9 vị Minh Phi, tập hợp lại gọi là Cam Lộ để tiến hành quán đỉnh cho đệ tử). Xem sách “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” của Tông Khách Ba, Pháp sư Pháp Tôn dịch, Nhà xuất bản Liên Khôi, in lần 1 bản thứ nhất, tháng 10/1996, trang 322.

 


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg