The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  3. Tôi là nô lệ tình dục của Mật giáo Thản Đặc La (Tantra) -3

[13] Cô Campbell còn thuộc loại lý tính, do đó có thể giác ngộ được một sự thực: Mình chỉ là một nô lệ tình dục, là công cụ tình dục mà thôi. Nhưng cho đến nay vẫn còn có rất nhiều cô gái bị xâm hại tình dục hoặc dụ dỗ làm tình nhưng không dám lên tiếng, thậm chí còn có người cam tâm tình nguyện tiếp tục mê tín.

[14] Chú thích: Bởi vì tình dục Tantra là phép tu ngoại đạo của Tính lực phái của Ấn Độ cổ, hoàn toàn không phải là nội dung tu hành của Phật giáo, chỉ là vì ngoại đạo ăn trộm danh tướng của Phật giáo để chui sâu vào trong Phật giáo, sau đó phát tích tại Tây Tạng xa xôi, rồi đổi tên thành Phật giáo Tạng truyền, về thực chất Phật giáo Tạng truyền không phải là Phật giáo.

[15] Chú thích: Đạt Lai Lạt Ma trong cuốn sách tiếng Anh của mình cũng viết tương tự: “Các loại phương pháp của Vô thượng Yoga Mật tục đều là hiển hiện Minh quang Tâm thông qua các kỹ thuật khác nhau, cũng gọi là Minh quang Tâm cơ sở vốn có. Một trong những kỹ thuật này là sử dụng Đại lạc của cực khoái tình dục (nhưng không xuất tinh) để loại bỏ tầng Ý thức thô sơ, thông qua phương pháp như vậy có thể hiển hiện được cái Tâm ở tầng nhỏ bé nhất”. Nguyên văn trong sách tiếng Anh là: “The varios systems of Highest Yoga Trantra seek to manifest the mind of clear light, also called the fundamental innate mind of clear light, by way of different techniques. One of these techniques is to use blissful orgasm (but without emission) to withdraw the grosser levels of consciousness, thereby manifesting the most subtle level of mind”. (The XIV Dalai Lama, ‘Kalachakra Tantra: Rite of Initiation’, Wisdom Publications, Boston, 1999, P35).

Tuy vậy, không phải chỉ có Đạt Lai Lạt Ma nói như vậy. Người viết xin đưa thêm một luận trước kinh điển nổi tiếng của Phật giáo Tạng truyền cũng nói như vậy: “Hành giả nếu như có thể kiên trì tu tập, thì khi ôm lấy Minh Mẫu, dù cho tinh sắp xuất ra ngoài đến nơi, chỉ cần vỗ đập một tiếng thì có thể bế tinh ngay lại, không cho nó xuất ra. Nếu như có thể giao hợp với Minh Mẫu mà không xuất tinh thì chắc chắn sẽ thành Phật”. (Theo cuốn “Na Lạc lục pháp” do Đạo Nhiên Ba La Bố Thương Tang Bố giảng, Lô Dĩ Thiệu ghi chép lại, Công ty văn hóa Thần Hy xuất bản lần đầu tháng 8/1994, trang 188).

[16] Đạt Lai Lạt Ma lại nói: “Căn cứ giải thích của Mật tục, trải nghiệm về Lạc có được từ 3 tình huống: 1 là xuất tinh, 2 là tinh dịch chuyển động trong mạch, 3 là thứ Lạc vĩnh hằng bất biến. Tu hành Mật tục lợi dụng 2 loại Lạc sau để chứng ngộ Không tính. Bởi vì phương pháp lợi dụng Lạc để chứng ngộ Không tính rất quan trọng, cho nên chúng tôi phát hiện ra rằng Phật mà Vô thượng Yoga tục quán tưởng đều là đang giao hợp với Minh Phi”. (Xem sách “Đạo tu hành Phật giáo Tây Tạng” trong Đạt Lai Lạt Ma văn tập (3) do Đạt Lai Lạt Ma viết, Trịnh Chấn Hoàng dịch, nhà xuất bản Tuệ Đuốc, in lần 1 bản thứ nhất tháng 3/2001, trang 85).

[17] Trên thực tế, nam nữ song thân tu pháp không thể tu thành Phật được, đó chỉ là những lời nói láo của các Lạt Ma của Phật giáo Tạng truyền, có điều dù là những lời nói láo ngu xuẩn đến mức nào thì vẫn có người tự nguyện bị lừa và tin theo.

[18] Cũng chính là phép quán tưởng như quán đỉnh cấp 1 (đầu tiên).

[19] Trên thực tế, tình dục Tantra nam nữ hợp thể của cái gọi là Vô thượng Yoga của Phật giáo Tạng truyền (Lạt Ma giáo) chính là ô nhiễm pháp, luân lạc pháp thấp nhất trong Dục giới.

[20] Đặc chỉ bộ kinh điển mà các Lạt Ma Mật tông của Phật giáo Tạng truyền tự sáng tác, khác hẳn với kinh luận của Hiển giáo.

[21] Các Phật sống – Lạt Ma – Thượng Sư của Phật giáo Tạng truyền thường rêu rao rằng có thể tức thân thành Phật thông qua tu luyện song thân pháp. Do đó, trước khi thực tu tình dục Tantra song thân pháp, họ thường cố gắng tu Trung mạch, Khí công, Bảo bình khí…mục đích là nhằm không xuất tinh khi giao hợp với các nữ tín đồ, như Đạt Lai Lạt Ma từng nói trong sách của ông ta thế này: “Có 3 phương thức có thể làm thay đổi Khí của cơ thể. Thứ nhất thuần túy là quá trình sinh lý tự nhiên, đó là do sự phân giải các nguyên tố khác nhau, bao gồm Địa đại (có tính kiên cố), Thủy đại (có tính lưu động), Hỏa đại (nhiệt độ), Phong đại (có tính động tác). Trong quá trình ngủ và tử vong, những thứ này tự nhiên sẽ xuất hiện, không thể kiểm soát. Loại thay đổi khí tương tự thứ 2 là kết quả của Thiền tu đặc định, chủ yếu thông qua chuyên chú và tưởng tượng. Việc này sẽ khiến cho Tâm thức chuyển từ thô nặng sang tầng thứ nhỏ nhẹ hơn, từ đó sinh ra thay đổi về Khí. Loại thứ 3 là thông qua quan hệ tình dục. Có điều hoạt động tình dục của người bình thường không thể điều khiển được sự di chuyển năng lượng và sự thay đổi các tầng thứ thô – nhẹ ở Tâm thức. Duy chỉ có thông qua tu trì đặc định, kiểm soát sự lưu chuyển của dịch sinh dục khi quan hệ tình dục mới có thể sản sinh ra, nam nữ đều thế cả”. (Xem cuốn “Phân tích và giải thích Tâm và Mộng” của Đạt Lai Lạt Ma, Dương Thư Đình và Dao Di Bình dịch, Công ty hữu hạn văn hóa Đại Thị, in lần đầu ngày 2/9/2008, trang 50).

[22] Ý là năng lượng dương tính và nam tính. Về bên ngoài thì thể hiện ra bằng tinh dịch vật chất của nam giới. Thông thường con người ta chỉ dựa vào kiến thức bổ sung cũng biết không thể đưa tinh dịch chuyển đến cột sống cho đến tận não bộ, do đó đây rõ ràng là những lời nói láo tự lừa mình dối người.

[23] Chính vì dưới nền tảng lý luận tà kiến và vọng tưởng này cho nên các Lạt Ma Phật giáo Tạng truyền luôn phải tìm rất nhiều phụ nữ để hợp tu Yoga Tantra, thậm chí bằng cách xâm hại tình dục cũng được.

[24] Sở dĩ gọi là “đảo lộn hành vi tình dục thông thường” là vì trong hành vi tình dục thông thường, nam giới cuối cùng cũng phải xuất tinh, cũng có nghĩa là mất đi năng lượng tinh khí! Tuy nhiên, song thân tu pháp Mật tông của Phật giáo Tạng truyền lại muốn “đảo lộn, đi ngược dòng”, còn rêu rao rằng không chỉ bế tinh mà còn có thể hấp thụ năng lượng tinh khí của bạn tình, rồi lộn ngược dòng dẫn năng lượng dâm dịch của nữ giới và tinh dịch của nam giới truyền lên não bộ! Nhưng trên thực tế, đó chỉ là vọng tưởng của các Lạt Ma. Còn Đạt Lai Lạt Ma trong sách của mình cũng nói thế này: “Ví dụ, nam nữ bình thường khi quan hệ tình dục theo cách thông thường, chất dịch trong cơ quan sinh dục của họ di chuyển hoàn toàn khác với các đôi nam nữ đắc chứng Yoga cao cấp khi quan hệ tình dục. Dù cấu tạo sinh lý của nam nữ khác nhau, nhưng khi chất dịch sinh dục bắt đầu chảy đến một cơ quan đặc định (cụ thể) nào đó, chắc hẳn vẫn có chỗ giống nhau. Trong quan hệ tình dục của người phàm thường và quan hệ tình dục của người tu hành đắc chứng Mật tục cao độ, chất dịch sinh dục đều chảy đến cơ quan sinh dục, nhưng khác nhau ở chỗ là liệu có thể kiểm soát được sự lưu chuyển của chất dịch sinh dục hay không? Người tu hành Mật tục được yêu cầu phải kiểm soát bằng được sự lưu chuyển của chất dịch sinh dục, cho nên những người tu hành có kinh nghiệm phong phú thậm chí có thể khiến cho chất dịch sinh dục chảy ngược, dù cho nó sắp phụt ra ngoài cơ quan sinh dục cũng không ngoại lệ. Những người tu hành ít kinh nghiệm thì có thể khiến cho nó chảy ngược khi còn cách xa đầu phía ngoài cơ quan sinh dục, bởi vì nếu để đến khi chất dịch sinh dục tiến gần sát phía ngoài cơ quan sinh dục quá thì sẽ khó kiểm soát. Có một phương pháp có thể rèn luyện khả năng kiểm soát, đó chính là đem ống hút đút vào cơ quan sinh dục, Yoga sĩ (người nam luyện Yoga) sẽ hút nước qua ống hút vào trước, sau đó là hút sữa bò, nhờ đó mà có thể tăng cường khả năng chảy ngược chất dịch sinh dục khi quan hệ tình dục. Những nhà tu hành giàu kinh nghiệm không những có thể làm chảy ngược chất dịch sinh dục từ vị trí cực thấp mà còn có thể đẩy ngược chất dịch sinh dục lên đỉnh đầu, tức quay về chỗ ban đầu mà chất dịch sinh dục chảy xuống”. (Xem cuốn “Phân tích và giải thích Tâm và Mộng” của Đạt Lai Lạt Ma, Dương Thư Đình và Dao Di Bình dịch, Công ty hữu hạn văn hóa Đại Thị, in lần đầu ngày 2/9/2008, trang 186-187).

[25] Do đó, Lạt Ma của Phật giáo Tạng truyền đều coi phụ nữ là công cụ tình dục để thỏa mãn dục vọng của mình. Những phụ nữ đó đều là nô lệ tình dục của họ. Họ sử dụng các hình thức đe dọa, dụ dỗ, lừa dối để buộc các nô lệ tình dục không đươc nói ra.

[26] Bởi vì chỉ có họ mới có thể tiến hành song tu bí mật với các Thượng Sư Lạt Ma “thiêng liêng cao quý”, do đó mà có được quyền lợi và hưởng thụ vật chất. Đó là sự khác biệt với các phụ nữ khác. Nhưng khi họ già đi, chân chậm mắt mờ, thậm chí khi mắc bệnh tình dục thì sẽ không còn giá trị gì nữa.

[27] Đó chính là những lời mà các Lạt Ma Phật giáo Tạng truyền đe dọa các nô lệ tình dục của họ.

[28] Những lời nói láo đó không thể kiểm chứng, nhưng rất nhiều người lo sợ tính mệnh bị đe dọa nên không thể không khuất phục trước dâm vọng của các Lạt Ma, buộc phải tin theo và tiếp tục đóng vai nô lệ tình dục cho họ.

[29] Những gì cô June Campbell nói là một sự thật: Các Lạt Ma, Nhân Ba Thiết hy vọng rằng thông qua quan hệ tình dục nam nữ đạt đến cực khoái tình dục, điều này chẳng có gì khác biệt so với nam nữ khỏa thân làm tình thông thường. Nhưng các vị Phật sống của Lạt Ma giáo (Phật giáo Tạng truyền) lại nói rằng quan hệ tình dục của họ là để tu hành, là cao thượng. Như Đạt Lai Lạt Ma từng nói: “Khi đạt cực khoái, thông qua kỹ thuật chuyên chú đặc biệt, những hành giả có năng lực có thể kéo dài trạng thái thật sâu, nhỏ bé và sung lực, lợi dụng nó để liễu ngộ Không tính. Tuy nhiên, nếu quan hệ tình dục trong trạng thái tinh thần của phàm phu (người thường) thì không có lợi ích gì hết”. (Theo cuốn “Đạt Lai sinh tử thư” do Đạt Lai Lạt Ma viết, Đinh Nãi Trúc dịch, Công ty cổ phần hữu hạn tạp chí Thiên Hạ phát hành, bản thứ nhất, ấn hành đợt thứ 12 ngày 20/12/2004, trang 158).

[35] Nguồn: http://www.libertytimes.com.tw/2010/new/oct/5/today-so4.htm

Những tư liệu trên đều lấy từ “Thời báo Tự Do” và các báo, phương tiện truyền thông lớn, còn có tư liệu đăng trên mạng.

[36] Bởi vì sự thịnh hành của Lạt Ma giáo (Phật giáo Tạng truyền) cho nên tình hình loạn giao (tình dục bừa bãi) là chuyện tất nhiên. Như trên đã nói đến vụ án tạp giao một nam nhiều nữ, hoặc một nữ nhiều nam, dưới sự dẫn dắt đến hình thành phong tục của giáo nghĩa tôn giáo như vậy, xã hội không trở thành xã hội loạn giao mới lạ.

[37] Bởi vì các Phật sống đều có quyền thế, do đó, họ thực hiện song tu pháp là chuyện phổ biến và tràn lan. Chính vì luân phiên tạp giao với quá nhiều người nên đa phần bị mắc bệnh tình dục, dẫn đến chuyện loét mũi là chuyện rất phổ biến.

[38] Trích lục từ “Phùng Ngọc Tường tướng quân tự truyện – cuộc sống của tôi” quyển 3 do Phùng Ngọc Tường viết, trang 556.

[39] Đó là những lời mà Lạt Ma giáo xưa nay vẫn nhồi nhét vào đầu phụ nữ để cùng lên giường hợp tu song thân pháp với họ.

[40] Theo cuốn “Tưởng Kinh Quốc tự thuật” chương “Thanh Hải mới”, do Dịch Mạnh Thuần biên tập, Nhà xuất bản Nhân Dân Hồ Nam, in lần 1 bản 1 tháng 9/1988, trang 140.

[41] Nguyên văn tư liệu bằng tiếng Anh, chi tiết xem tại Phụ lục 8. Toàn văn nguồn tư liệu: http://www.american-buddha.com/sect.alarmed.htm

 

Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 7975


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg