The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  ĐẶC ĐIỂM TU HÀNH CHUNG CỦA CÁC GIÁO PHÁI MẬT TÔNG TÂY TẠNG VÀ SỰ KHÁC BIỆT CỦA HỌ SO VỚI PHẬT GIÁO – LẤY GIÁO NGHĨA PHÁI CÁCH LỖ LÀM VÍ DỤ -3

 [Mật tục (Tantra) kỳ thực chính là kinh điển của phái Tính Lực (Tantrism) trong Ấn Độ giáo, phương pháp tu hành chủ yếu chính là “song thân pháp”. Mật tông Tây Tạng trực tiếp đem những giáo nghĩa Mật tục của phái Tính Lực thuộc Ấn Độ giáo làm thành hệ thống tư tưởng và tu chứng chủ yếu của mình. Trên thực tế, sự tu hành “song thân pháp” này đều là Mật tông Tây Tạng trực tiếp sử dụng nội dung tu hành của phái Tính Lực Ấn Độ giáo, rồi tự đội lên các loại danh từ trong kinh Phật để tạo thành vỏ bọc bề ngoài của Phật pháp. Sự thực là hoàn toàn không thể tìm thấy những giáo nghĩa này trong kinh Phật chính thống, cho nên giáo lý và thực tu của Mật tông Tây Tạng không hề có chút quan hệ nào với Phật pháp, mà lại phù hợp giáo nghĩa của phái Tính Lực thuộc Ấn Độ giáo, không có khác biệt nào.] (45)

Cổ Tử Văn trong cuốn sách “Thâm nhập đất Tạng: tả thực cuộc đi bộ Tây Tạng 10 vạn ki lô mét” đã ghi chép về việc ông đích thân đi Butan phỏng vấn thực địa với một vị tên là Chu Ba Cơ Mễ Nhã khi 14 tuổi đã trở thành “Chu Ba Kim Cương Phật Mẫu”. Từ lời trần thuật của chính người thuộc Phật giáo Tạng truyền này, chúng ta có thể đoán định rằng những phát biểu nói trên là có căn cứ. Cổ Tử Văn viết:

[Phật Mẫu Cơ Mễ Nhã kéo tay tôi bước ra ngoài, vừa đi vừa nói: “Giai đoạn cuối cùng của Phật giáo Ấn Độ biến thành Mật tông, trên thực chất khái niệm “Phật giáo” này có sự sai biệt rất lớn về nội dung tùy theo sự khác nhau về thời đại và khu vực”. Quan điểm này của pháp sư tôi lần đầu tiên được nghe thấy. Bà nói tiếp: “Mật tông Ấn Độ là sản vật mà Phật giáo Ấn Độ hấp thu giáo lý thần Siva của Ấn Độ giáo; Mật tông cao nguyên là sản vật do Mật tông Ấn Độ hấp thụ giáo lý Bôn giáo vốn là văn hóa bản địa ở cao nguyên, cho nên Phật giáo Tạng truyền là sự kết hợp ba giữa Phật giáo Ấn Độ (Hiển tông), phái Sinh Thực (phái Tính Lực) của Ấn Độ giáo và văn hóa Bôn giáo…Liên Hoa Sinh từ Ô Trượng Na…đem Tân Mật đến cao nguyên, lần đầu xây dựng chùa Tang Da, hấp thu nội dung Bôn giáo là quốc giáo đương thời, tạo thành sự khởi đầu của Tạng Mật. Trung tâm của Tân Mật gọi là ‘Lạc Không song vận’…”, “…hình thức tu trì pháp Thản Đặc La (Tantra) đại Du Già Tân Mật quy định là ‘Đại định của nam nữ hòa hợp’, nghĩa là nam nữ giao hợp cùng nhau nhập định. Hình thức đại định hòa hợp này được tăng nhân Ấn Độ đưa đến Ô Tư Tạng, …bởi vì Bôn giáo chủ trương ‘nam nữ tương xúc âm dương thành đại luân’, tín ngưỡng thần nam nữ, sùng bái sinh thực khí nam nữ. Cho nên, Vô thượng Du Già bắt rễ xanh lá tại đại cao nguyên”.] (46)

Pháp sư Thánh Nghiêm cũng cho rằng Kim Cương thừa Mật tông Tây Tạng chịu sự ảnh hưởng của phái Tính Lực thuộc Ấn Độ giáo, vì thế lấy dâm hành làm pháp môn căn bản trong tu đạo. Ông nói: “Tóm lại, Yoga tình dục (Sexual Yoga) của Mật giáo, có quan hệ rất sâu với phái Tính Lực (Sakti) của Ấn Độ giáo. Ví dụ: Phái Tính Lực có tượng hai thần nam nữ ôm nhau giao hội, Mật thừa cũng có Bản tôn nam nữ trong tư thế song thân ôm nhau tương ứng. Thánh điển Ấn Độ giáo trong phái Tính Lực gọi là Thản Đặc La (Tantra), Mật điển của Phật giáo thời kỳ sau cũng gọi là Thản Đặc La”. (47)

Có thể thấy, thuyết nói giáo nghĩa của Mật tông Tây Tạng bắt nguồn từ phái Tính Lực của Ấn Độ giáo là có căn cứ đáng tin cậy. Để càng hiểu rõ hơn về nội dung của phái Tính Lực, pháp tu song thân, khi thảo luận về giáo nghĩa trọng tâm của phái Cách Lỗ ở chương dưới, bài viết này sẽ phân tích, thảo luận thêm, ở đây không nói tiếp nữa.

IV. GIÁO NGHĨA CỦA MẬT TÔNG TÂY TẠNG KHÔNG KHỚP VỚI NỘI DUNG CỦA PHẬT GIÁO

Mật tông Tây Tạng tự cho rằng mình là Phật giáo Tạng truyền, hoằng truyền giáo pháp của Thế Tôn ở Tây Tạng, thế nhưng giáo nghĩa mà họ truyền bá lại không hoàn toàn là pháp mà Phật Đà từng tuyên thuyết. Về phương diện tu hành, một khi không hoàn toàn là pháp mà Phật Đà truyền dạy thì không phải là chân lý, không phải là giáo pháp của đạo Giải thoát. Trong giáo lý của Mật tông Tây Tạng, chỉ có các loại danh từ của Phật giáo dùng để bao bọc, đọc lên thì phảng phất có mùi vị Phật giáo, nhưng nếu như cẩn thận nghiên cứu nội dung của nó thì sẽ phát hiện, giáo nghĩa này khác biệt hoặc trái ngược với giáo pháp của Như Lai.

Phần trên đã giới thiệu qua về sự hình thành và phát triển của các giáo phái của Phật giáo Tây Tạng và các đặc trưng chung của chúng, nhưng nội dung thuần túy thuộc về sự tướng bề ngoài, vẫn chưa nói đến giáo nghĩa cụ thể của các giáo phái. Do phái Cách Lỗ đến sau ngồi trước, hiện nay trở thành giáo phái lớn nhất, có sức ảnh hưởng nhất ở Mật tông Tây Tạng, xứng đáng là đại diện về mọi mặt của Phật giáo Tạng truyền, do đó, bài viết này sẽ phân tích và thảo luận thêm về một số nội dung quan trọng trong giáo nghĩa của phái này. Phương pháp trực tiếp và hiệu quả nhất chính là đem Mật tục (kinh điển) của phái Cách Lỗ so sánh với kinh Phật, làm nổi bật sự sai biệt giữa hai bên.

1. Giáo nghĩa của Mật tông Tây Tạng trái ngược với nội dung Ngũ giới của Phật giáo

Mọi người đều biết, nội dung tu hành cơ bản của Phật giáo là quy y Tam Bảo, thụ trì Ngũ giới. Ngũ giới tức là không sát sinh, không tà dâm (người xuất gia bất dâm), không trộm cắp, không vọng ngữ, không uống rượu. Nhưng, đối với Mật tông Tây Tạng mà nói, đó chỉ là sự tu hành của Hiển giáo, sau khi thông đạt Hiển giáo mới có tư cách tu hành Mật giáo. Vào tu Mật, sau khi thụ giới Tam muội da mà chỉ riêng Mật giáo mới có, hành giả Mật tông không cần phải trì Ngũ giới, thậm chí phạm Ngũ giới cũng chẳng sao. Nội dung tu Mật này, thông thường các Lạt Ma, Thượng sư, Phật sống của Mật tông Tây Tạng sẽ không công khai giảng giải, chỉ có thể nhìn thấy ở các kinh điển cao cấp của Mật tông. Ví dụ, từ trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” – kinh điển cao cấp nhất do Tông Khách Ba - tổ sư phái Cách Lỗ biên soạn, chúng ta biết được người học Mật tông sau khi thụ giới Tam muội da lại ngang nhiên có thể phá Ngũ giới mà không sợ hãi. Tông Khách Ba nói: “Sau khi rõ quán đỉnh thứ ba trên thì dựa vào đó thực hành nghi lễ phần 2 trong phẩm thứ 10. Giới Tam muội da trong quán đỉnh này, như Đáp Nhật Già Bạt nói: ‘Ngươi có thể giết hữu tình, thụ dụng con gái của kẻ khác, không cho ngươi cứ lấy, tất cả nói vọng ngữ’”. (48) Còn về ăn thịt, uống rượu, đối với các Lạt Ma Tây Tạng mà nói, càng là chuyện thường tình mà thôi.

Phật giáo truyền thống đưa ra ba loại giới luật nhằm vào đối tượng tu hành khác nhau và mục đích của anh ta: Người cư sĩ tại gia tu Nhân thừa thì phải thụ Ngũ giới; Nếu muốn tu Thiên thừa, ngoại trừ thụ trì Ngũ giới ra còn phải kiêm tu Thập thiện; Người xuất gia tu Thanh Văn thừa thì phải thụ trì giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni (còn gọi chung là Thanh Văn giới); Người muốn tu Bồ Tát thừa (không phân biệt tại gia hay xuất gia) đều phải thụ Bồ Tát giới (còn gọi là Thiên Phật giới, Nhất thiết Chúng sinh giới). Trong đó, sát giới là giới luật quan trọng nhất, đứng ở hàng đầu. Thế nhưng, người học Mật thụ trì giới Tam muội da lại có thể “sát sinh trước và sau, thanh tịnh không sinh tội” (49), dường như không có Nhân Quả nào để nói cả.

Còn về vấn đề ăn thịt, người thụ Ngũ giới, Thanh Văn giới ăn thịt không phạm giới, nhưng điều cần chú ý là người thụ Ngũ giới chỉ có thể giữ được thân người trong kiếp sau, còn người thụ Thanh Văn giới tối đa chỉ có thể chứng được La Hán quả, không thể thành Phật. Người muốn thành Phật, trước hết nhất định phải thụ trì Bồ Tát giới, lấy đó làm điều kiện cơ bản, trong đó, nếu ăn thịt thì bị coi là phạm giới, như “kinh Phạm Võng” nói: “Nếu Phật tử cố tình ăn thịt, nhưng mà tất cả các loại thịt đểu không được ăn: vì người ăn thịt đoạn chủng tử Phật tính đại từ bi, tất thảy chúng sinh nhìn thấy đều bỏ đi, cho nên tất cả Bồ Tát đều không được ăn thịt mọi chúng sinh. Ăn thịt sẽ đắc vô lượng tội. Nếu người nào cố tình ăn, là phạm tội nhẹ”. (50) Lại nữa, trong “Kinh Lăng Nghiêm” cũng nói: “Lẽ nào sau khi Như Lai diệt độ, ăn thịt chúng sinh mà lại coi là Thích tử? Các ngươi nên biết: người ăn thịt mà vui vẻ trong lòng tựa Tam ma địa, đều là đại La Sát, sau khi xả báo tất trầm luân bể khổ sinh tử, không phải là Phật tử”. (51) Thế nhưng, người học Mật tự xưng có chứng lượng cao hơn Hiển giáo đều không thụ Bồ Tát giới, lại thường xuyên ăn thịt mà lại có thể “tức thân thành Phật”, “tức sinh thành Phật”, thậm chí xưa nay còn có rất nhiều Lạt Ma đã trở thành Phật sống, Pháp Vương (tên gọi khác của Phật Đà), hiển nhiên là không khớp với giáo nghĩa của Phật giáo truyền thống. Đạt Lai Lạt Ma từng nói về nguyên nhân ông ta ăn thịt hàng ngày trong cuốn sách tự truyện “Tự tại trong lưu vong” của ông ta như sau:

[Đầu năm 1966, cuộc xung đột Ấn Độ - Pakistan đi vào hồi kết, tôi trở về Đạt Lan Sa La, bắt đầu nhiệt huyết ăn chay. Món ăn Tây Tạng rất ít khi không có thịt, vì thế đầu bếp phải trải qua một thời gian khá lâu mới học được cách làm thế nào không nấu thịt mà vẫn khiến cho món ăn thơm ngon, vừa miệng. Khi đó, bạn bè Ấn Độ cho tôi biết về tầm quan trọng của việc uống nhiều sữa bò và ăn các loại hạch nhân để bổ sung dinh dưỡng. Tôi gắng làm theo lời khuyên của họ, không ngờ 20 tháng sau thì mắc bệnh hoàng đản (vàng da) nghiêm trọng. Ngày đầu tiên tôi nôn rất nhiều, sau đó hai, ba tuần tôi hoàn toàn không có cảm giác thèm ăn, còn cảm thấy mệt mỏi vô cùng, động một chút là phải dùng sức mạnh toàn thân. Điều rõ rệt nhất là, da của tôi bị biến thành màu vàng nghệ, nhìn cứ như tượng Phật Đà! Trước đây có người nói rằng, Đạt Lai Lạt Ma như tù nhân trong cái lồng vàng, giai đoạn này thì cả cơ thể tôi đã biến thành màu vàng rồi. Lần này sau khi được chẩn đoán là bệnh viêm gan B, cuối cùng cũng đã đỡ rồi, nhưng tôi đã dùng một lượng lớn thuốc Tây Tạng. Tôi lại bắt đầu có cảm giác thèm ăn, bác sĩ bảo tôi ăn ít dầu mỡ, giảm ăn hạch nhân và sữa bò, đồng thời tôi buộc phải ăn thịt trở lại. Họ lo rằng đợt bệnh này đã gây ra tổn thương vĩnh viễn cho gan, vì thế mà rút ngắn tuổi thọ của tôi. Rất nhiều bác sĩ Ấn Độ mà tôi mời đến đều nói như vậy, vì thế tôi đành phải từ bỏ ăn chay một cách tâm không cam, tình không nguyện. Nay trừ những yêu cầu đặc biệt về mặt tu dưỡng tâm tính ra thì thường ngày tôi đều ăn chay.] (52)

Kỳ thực, những lời nói trên đều là mượn cớ, vì các Lạt Ma Tây Tạng ăn thịt đã thành thói quen, hơn nữa lại là điều được phép trong tu Mật. Đây cũng là sự thực đã được Đạt Lai Lạt Ma từng thừa nhận: “Ở ngoài tam Mật, ăn mặn là điều cấm chỉ nghiêm ngặt. Nhưng trong Vô thượng Yoga, hành giả quả thực được khuyến khích ăn năm loại thịt và năm loại Cam lộ. Một hành giả viên mãn trong Vô thượng Yoga có thể dựa nhờ vào sức mạnh thiền định, chuyển hóa Ngũ nhục và Ngũ cam lộ trở thành đồ vật thanh tịnh, tiêu hóa chúng để tăng cường năng lượng hỉ lạc trong cơ thể”. (53) Theo mạng thông tấn Quỹ tôn giáo Tây Tạng Đạt Lai Lạt Ma mục “Giải đáp vấn đề thường gặp”, khi trả lời bạn đọc, Đạt Lai Lạt Ma đã nhấn mạnh một lần nữa: “Ba bộ dưới của Kim Cương thừa hoàn toàn cấm ăn thịt. Bộ Vô thượng Yoga có năm loại thịt, năm loại Cam lộ, nhưng quy định rất nghiêm khắc, người có chứng lượng cao thâm mới có thể ăn, nếu không là có hại.” (54) Cái gọi là “năm loại thịt, năm loại Cam lộ”, thượng sư Trần Kiện Dân nổi tiếng của Mật tông trong cuốn “Khúc quăng trai toàn tập (1)” đã đưa ra giải thích rất chi tiết và kinh người như sau:


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg