The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  ĐẶC ĐIỂM TU HÀNH CHUNG CỦA CÁC GIÁO PHÁI MẬT TÔNG TÂY TẠNG VÀ SỰ KHÁC BIỆT CỦA HỌ SO VỚI PHẬT GIÁO – LẤY GIÁO NGHĨA PHÁI CÁCH LỖ LÀM VÍ DỤ -5

 Cái biện pháp “để có thể duy trì mãi mãi cái Đại Lạc này, cho nên tinh dịch của anh ta tuyệt đối không được rớt ra ngoài, một giọt cũng không được rớt ra” mà Đạt Lai Lạt Ma nói chính là vận dụng khí công và định lực. Vì thế, các Lạt Ma trước khi thực tu (làm thật) tình dục Tantra song thân pháp, đều ra sức tu luyện Trung mạch, khí công, Bảo bình…, mục đích chính là để không xuất tinh khi giao hợp với Phật mẫu. (70) Pháp vương tối cao của Mật tông Tây Tạng trong cuốn sách “Giải thích tâm và mộng” nói rằng:

[Có ba phương thức có làm thể thay đổi sự sản sinh khí trong cơ thể. Loại thứ nhất thuần túy là quá trình sinh lý tự nhiên, đây là sự phân giải các nguyên tố khác nhau, bao gồm Địa đại (tính kiên cố), Thủy đại (tính lưu động), Hỏa đại (tính nóng), Phong đại (tính động tác). Trong quá trình ngủ và chết, những nguyên tố này sẽ tự xuất hiện, không thể nào kiểm soát được. Một sự thay đổi tương tự khí khác là kết quả tu thiền đặc định, chú yếu thông qua chuyên chú và tưởng tượng. Việc này có thể khiến cho tâm thức từ thô nặng chuyển sang tầng thứ vi tế, dẫn đến sự thay đổi trong việc sinh khí. Loại thứ ba chính là gặp ở hành vi tình dục. Có điều, sự giao cấu của người bình thường sẽ không thể nào đạt được sự di động của loại năng lượng này và sự thay đổi tầng thứ thô tế của ý thức. Duy chỉ có gặp ở tu trì đặc định, kiểm soát sự lưu động của dịch sinh dục khi quan hệ tình dục thì mới có khả năng xảy ra, nam nữ đều như vậy.] (71)

Cái gọi là “kiểm soát sự lưu động của dịch sinh dục” xem ra chỉ là pháp môn bế tinh trong thuật phòng trung (của Đạo giáo), kỳ thực không phải như vậy. Điểm khác biệt ở chỗ, hành giả Mật tông không những có thể phòng chống việc xuất tinh sớm, kéo dài thời gian xuất tinh, mà còn có thể khiến cho tinh dịch đi ngược, tùy ý thăng giáng trong cơ thể. Công phu của họ quả thực khiến người ta khó có thể tưởng tượng được. Đạt Lai Lạt Ma giải thích tiếp:

[Ví dụ, nam nữ bình thường thực hiện quan hệ tình dục, sự di động của dịch sinh dục của họ rất rất khác so với du già sĩ và du già nữ chứng đắc cao thực hiện hành vi tình dục. Cho dù cấu tạo sinh lý của người nam và người nữ hoàn toàn khác nhau, nhưng từ khi dịch sinh dục bắt đầu chảy xuống đến một bộ phận đặc định nào đó, có lẽ vẫn có chỗ giống nhau. Trong hành vi tình dục của người bình thường và hành vi tình dục của người tu hành Mật tục chứng đắc cao, dịch sinh dục đều chảy đến bộ phận sinh dục, khác nhau ở chỗ là liệu có thể kiểm soát được sự lưu động của dịch sinh dục đó hay không. Người tu hành Mật tục được yêu cầu buộc phải kiểm soát sự lưu động của chất dịch sinh dục, cho nên người tu hành giàu kinh nghiệm, thậm chí anh ta có thể khiến cho dịch sinh dục chảy ngược, cho dù khi nó đã chạy đến đầu chót bộ phận sinh dục thì cũng không ngoại lệ. Người tu hành thiếu kinh nghiệm phong phú thì chỉ có thể khiến cho nó chảy ngược khi còn cách đầu chót bộ phận sinh dục một đoạn xa, bởi vì nếu như dịch sinh dục chảy đến vị trí quá gần đầu chót thì sẽ khó khống chế. Có phương pháp có thể huấn luyện sức kiểm soát này, đó là lấy ống hút cắm vào bộ phận sinh dục, du già sĩ (nam) trước hết hút nước lên qua ống hút, sau đó hút sữa bò, nhờ đó mà tăng cường năng lực nghịch hành dịch sinh dục khi quan hệ tình dục. Người tu hành giàu kinh nghiệm không chỉ có thể khiến dịch sinh dục chảy ngược ở vị trí rất thấp, mà còn có thể khiến cho dịch sinh dục chảy ngược lên vị trí đỉnh chót, tức là nơi dịch sinh dục chảy xuống ban đầu.] (72)

Đối với một hành giả tu Mật mà nói, khi nam nữ song tu càng có thể kéo dài thời gian cực khoái tình dục, thì anh ta càng có cơ hội lợi dụng và đạt được mục đích chứng ngộ Không tính, vì thế mà Đạt Lai Lạt Ma mới nói:

[Mà cảm thụ mạnh nhất chính là lúc đạt cực khoái tình dục. Đây là một trong những nguyên nhân mà việc tu tập Đại Lạc (Practice bliss) sở dĩ nằm trong Mật tục yoga tối cao. Người bình thường hay có rất nhiều sự hiểu lầm về tình dục và các ẩn dụ khác trong Mật tục Vô thượng yoga (Anuttara yoga tantra). Lý do thực sự của sự ẩn dụ tình dục, hoàn toàn là vì trong tình huống bốn loại Quang minh xuất hiện thì cực khoái tình dục là mãnh liệt nhất. Vì thế sự ẩn dụ này mới dùng trong tĩnh tọa, để kéo dài kinh nghiệm Quang minh xuất hiện, hoặc khiến nó càng rõ ràng trong sáng, mục đích là ở đó. Khi đạt cơn cực khoái tình dục, bởi vì kinh nghiệm xuất hiện Quang minh khá dài lâu, do đó anh cũng có khá nhiều cơ hội để tăng cường lợi dụng.] (73)

Kỹ thuật đặc biệt kiểm soát dịch sinh dục của Lạt Ma, Thượng sư Mật tông Tây Tạng này là nhằm đạt đến Đại Lạc vĩnh hằng của cực khoái tình dục, từ đó có thể chứng ngộ, thành “Phật”. Nếu như không tu tập theo thứ tự tu hành của Vô thượng Yoga, thì mãi mãi chỉ là quan hệ tình dục của phàm phu bình thường mà thôi, như giáo chủ của phái Cách Lỗ nói: “Khi đạt cực khoái tình dục, thông qua kỹ xảo chuyên chú đặc biệt, hành giả có năng lực có thể kéo dài trạng thái đó thật sâu, vi tế và đủ lực, rồi lợi dụng nó để liễu ngộ Không tính. Thế như, nếu chỉ thực hiện quan hệ tình dục trong trạng thái tinh thần của phàm phu thì không có bất cứ lợi ích gì”. (74) Có thể nói, “Chứng ngộ Không tính”, “tức thân thành Phật” của Mật tông Tây Tạng đều phải dựa vào song thân pháp để tu hành, dù là quán tưởng tu ở thời kỳ đầu hay là tu thực thể ở thời kỳ sau, đều không tách rời khỏi pháp tu song thân của Phật phụ và Phật mẫu, như Đạt Lai Lạt Ma từng xác nhận:

[Dựa vào giải thích của Mật tục, kinh nghiệm về Lạc có được từ ba tình huống: Thứ nhất là (Lạc) phóng tinh, thứ hai là (Lạc) tinh dịch di động trong mạch, thứ ba là cái Lạc vĩnh hằng bất biến. Việc tu hành của Mật tục là lợi dụng hai loại Lạc sau để chứng ngộ Không tính. Bởi vì phương pháp lợi dụng Lạc để chứng ngộ Không tính vô cùng quan trọng, cho nên chúng ta phát hiện Phật mà Vô thượng Yoga liên tục quán tưởng đều giao hợp với Minh phi.] (75)

Những lời nói trên đây của Đạt Lai Lạt Ma kỳ thực đều là kế thừa từ giáo nghĩa của tổ sư phái Cách Lỗ - Tông Khách Ba. Trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”, Tông Khách Ba đã đem phương pháp và thứ tự tu hành của song thân pháp chia thành bốn bộ gồm Sự bộ, Hành bộ, Du già (Yoga) bộ, Vô thượng Yoga bộ. Cả bốn bộ này đều lợi dụng Đại Lạc đạt được từ nam nữ song tu để vận dụng vào tu đạo. Hành giả Mật tông thông qua Đại Lạc sinh ra từ thứ tự tu hành này, phối hợp với Không du già và Bản tôn du già là có thể chứng ngộ Không tính. Vì thế, người tu Mật nếu muốn nhanh chóng “chứng ngộ Không tính”, “tức thân thành Phật” thì bắt buộc phải tu song thân pháp, cùng Phật mẫu thực thể - nữ hành giả Mật tông thực hành Lạc Không song vận, như Tông Khách Ba từng dạy:

[(nếu) vứt bỏ Minh phi đầy đủ các tướng, mà dùng các phương tiện khác thì không thể tốc hành thành Phật. Đáp Nhật Già Bạt nói có thể thanh tịnh tam thú (ba đường), ý là tam thú nhờ đây mà thanh tịnh, vì thế các ngươi không nên xa lìa Minh phi này. Từ Minh phi đầy đủ các tướng tu hành Đại Lạc tam ma địa, là tất cả Phật vô thượng Minh phi cấm hành…Nghĩa của từ “cấm hành” là chỉ việc để đắc tất cả Như Lai tất địa, nên quyết định phải làm”.] (76)

Chủ trương lấy song thân pháp Vô thượng Yoga để thành tựu Phật đạo của Đạt Lai Lạt Ma cũng hoàn toàn phù hợp với nội dung của Mật điển “Na Lạc lục pháp” mà năm xưa tổ sư Tông Khách Ba hết mực tôn sùng, ví dụ như: “Chư Phật ở Kim Cương thừa trong Đàn thành đều ôm lấy Minh phi, tức là song thân đó. Người tu pháp thành công, trước hết phải tu đơn thân (một mình), sau đó không ai là không tu song thân” (77), “hành giả nếu có thể tu tập kiên định, thì khi ôm Minh mẫu, cho dù tinh dịch sắp xuất ra ngoài, chỉ cần vỗ đập một tiếng là có thể lập tức bế tinh, khiến nó không thể xuất ra. Nếu có thể giao hợp với Minh mẫu mà không xuất tinh, thì chắc chắn thành Phật”. (78) Pháp môn tu hành này không hề được tìm thấy trong kinh điển Đại, Tiểu thừa, nên có thể thấy đó là pháp môn chỉ có duy nhất ở Mật tông Tây Tạng.

Phần trên đã nói, Liên Hoa Sinh được coi là giáo chủ chung của các giáo phái Mật tông Tây Tạng, nguyên nhân chính là các chi phái này đều tu luyện song thân pháp. Mà pháp tu song thân này xuất hiện sớm nhất ở cuốn sách “Hợi mẫu thậm thâm dẫn đạo” của Liên Hoa Sinh. (79) Thượng sư nổi tiếng của phái Cát Cử Trần Kiện Dân trong cuốn sách “Khúc quăng trai toàn tập (3)” đã từng chú dẫn nội dung pháp tu song thân từ cuốn “Hợi mẫu thậm thâm dẫn đạo” của Liên Hoa Sinh như sau:

[Thực hành pháp tu trong lều tranh yên tĩnh nơi không có người nhìn trộm, để bạn tu tắm rửa trang nghiêm, xức dầu thơm, đeo túi thơm, rồi bắt đầu mời Dũng phụ và Không hành mẫu ra. Tiếp theo, duỗi chân mình trên đùi Minh mẫu có đầy đủ các tướng, cùng ôm hôn, lấy tay vuốt ve miệng môi lưỡi, bóp hai vú; hoặc nhìn ngắm liên (âm hộ) và chùy (dương vật) của nhau, đặt chùy lên tay của Minh mẫu, cố gắng biểu thị phương tiện sinh Lạc. Đúng lúc tác nghiệp (giao hợp), nếu sinh tham dục, thì cần liễu đạt tới Tự tính của mình, tức diệu dụng của Pháp thân pháp, nghĩa là nhận thức được Tự tính, Bản lai diện mục trên cái tham, mà định được trên bản diện, khi đó cái tham dục bình thường sẽ tự nhiên bị phá hủy. Đó là phương tiện hiển hiện Đại Lạc từ tham dục, cho nên cần tinh tấn cần cù tu trì.] (80)

Không chỉ như vậy, trong cuốn “Hợi mẫu thậm thâm dẫn đạo”, Liên Hoa Sinh còn trình bày chi tiết về nội dung 64 chiêu thức và các tư thế tình dục thực tế trong nam nữ song tu, có thể nói là bộ sách đại toàn về kỹ năng quan hệ tình dục nam nữ. Vì hạn chế chương tiết, bài viết này chỉ có thể trích lục một phần trong đó ra như sau:

[Trò chơi song vận cơ bản có 8 chiêu, trong mỗi 8 chiêu lại có 8 thức, thành 64 thức. 8 chiêu cơ bản là: 1. Cận hiệp (tiếp cận); 2. Vẫn hợp (hôn môi); 3. Chỉ lộng (nghịch tay); 4. Xỉ ngoạn (chơi bằng răng); 5. Liên hí (nghịch hoa sen); 6. Thanh vận (âm thanh); 7. Nhục cảm (khoái cảm cơ thể); 8. Điên loan (tư thế đảo lộn)… Trong Điên loan, nếu cơ thể người nam quá to nặng, người nữ không thể chịu nổi sức nặng thì phải đảo lộn tư thế, nữ đổi thành nam, làm theo như sau: (1) Nhảy vọt đi nhanh gọi là Chạy; (2) Dừng lâu rút chậm là Án; (3) Đùi quấn vào nhau, bụng người nữ như bánh xe xoay chuyển, gọi là Triển; (4) Đùi gót người nam quấn vào nhau, nam bị hơi động cựa ở dưới, gọi là Sàng; (5) Người nam nghỉ ngơi gọi là Đán; (6) Người nam hoàn toàn bất động, người nữ từ từ làm, gọi là Thoa; (7) Chân tay nam duỗi thẳng, gọi là Túy; (8) Người nữ ngồi ngược xoay lưng lại, hành từ trên, gọi là Kiều. 64 thức nói trên, tùy ham muốn mà thực hành, để nhập vào Không Lạc.] (81)

Điều đáng nói là, Lạt Ma Tây Tạng Gedün Chopel (1905-1951) năm 1938 từng viết một cuốn sách có tên là “Dục kinh Tây Tạng”, bên trong giới thiệu hàng loạt thuật phòng the tình dục nam nữ. Ông Jeffrey Hopkins đã đem cuốn sách này dịch sang tiếng Anh với tiêu đề “Tibetan Arts of Love”, đồng thời chỉ ra rằng nội dung của “Dục kinh Tây Tạng” chủ yếu lấy tư liệu từ cuốn “Ái Kinh (Kama Sutra)” nổi tiếng của Ấn Độ. Căn cứ vào phần giới thiệu nội dung của “Dục kinh Tây Tạng”: “Sách của ông ấy đã trình bày một cách rõ nét, chi tiết 64 loại nghệ thuật tình dục, chia thành trò chơi tình ái gồm 8 loại lớn – ôm ấp, hôn môi, nắn bóp, cắn, di động vào ra, tiếng rên rỉ, chuyển đổi vai trò, tư thế giao hoan. Tiêu điểm hình nhi thượng của nó là: hỉ lạc tình dục là con đường kinh nghiệm tâm linh thông đạt đến Tự tính căn bản” (82), chúng ta có thể một lần nữa xác nhận pháp môn song thân pháp của Mật tông Tây Tạng bắt nguồn từ phái Tính Lực của Ấn Độ giáo rồi.

Sự đặc sắc của tu hành trong Mật tông Tây Tạng còn thể hiện ở trì chú, khí công, yoga, quán đỉnh, quán tưởng, các loại nghi lễ…, nhưng nội dung của nó không có cái nào không liên quan đến nam nữ song thân pháp. Vì hạn chế về chương tiết, nên bài viết này chỉ có thể đề cập một cách đơn giản đến phần cốt lõi nhất, cũng đủ để cho mọi người thấy sự khác biệt giữa Phật pháp Đại, Tiểu thừa và Mật tông Tây Tạng rồi.

V. KẾT LUẬN

Mật tông Tây Tạng từ thế kỷ 7 bắt đầu tiếp xúc sơ bộ với Phật giáo, nhưng chủ yếu thông qua con đường giao lưu văn hóa với triều Đường. Cho đến nửa thế kỷ thứ 8 trở về sau, sự kiện nhóm người Liên Hoa Sinh vào Tạng đã đánh dấu chính thức Phật giáo bắt đầu truyền vào Tây Tạng. Lúc này, Phật giáo Ấn Độ đã bước vào giai đoạn cuối của thời kỳ Tượng pháp, dường như không còn vị thuần chất nữa rồi. Do đó, khi Phật giáo truyền bá đến Tây Tạng, giáo nghĩa của nó đã xen tạp các thành phần của phái Tính Lực thuộc Ấn Độ giáo, sau khi kết hợp với Bôn giáo bản địa Tây Tạng thì dần dần hình thành nên cái gọi là “Lạt Ma giáo”, còn gọi là Phật giáo Tạng truyền.

Đến giữa thế kỷ thứ 11, A Để Hạp từ Băng La Đét sang Tây Tạng thành lập phái Cát Đương, đánh dấu cục diện phân tông lập phái của Mật tông Tây Tạng. Trong số mấy chục chi phái, các giáo phái Ninh Mã (Hồng giáo), Cách Lỗ (Hoàng giáo), Tát Già (Hoa giáo), Cát Cử (Bạch giáo) được coi là bốn phái lớn của Mật tông Tây Tạng, trong đó Hoàng giáo thành lập muộn nhất vào thế kỷ thứ 15, nhưng lại đến sau ngồi trên, thế lực vô cùng lớn mạnh, ảnh hưởng cho đến tận ngày nay, trở thành đại diện ưu tú nhất của Mật tông Tây Tạng.

Khi nghiên cứu lịch sử phát triển của Mật tông Tây Tạng, bài viết này phát hiện ra rằng các chi phái tuy rất nhiều, nhưng hình thức và nội dung của chúng đều là giống nhiều khác ít. Về mặt hình thức, các chi phái có hai đặc điểm chung. Thứ nhất, các chi phái đều có liên quan ít nhiều đến Bôn giáo. Bởi vì Bôn giáo là tôn giáo nguyên thủy ở đất Tạng, cho nên các chi phái đều có các thành phần như trì chú, sùng bái quỷ thần, nghi thức cầu cúng…, thậm chí còn đem quỷ thần của Tây Tạng làm thần hộ pháp của Phật giáo Tạng truyền. Thứ hai, các chi phái đều áp dụng chế độ Phật sống chuyển thế để duy trì quyền lực và địa vị của thủ lĩnh chính giáo hợp nhất. Phật sống chuyển thế bắt đầu từ phái Cát Mã Cát Cử vào thế kỷ thứ 13, là quan niệm mà Phật giáo vốn không hề có, nhưng lại được các chi phái khác bắt chước và áp dụng theo cho đến ngày nay. Điều đáng chú ý là, chế độ Phật sống chuyển thế luôn bị chính quyền Nguyên, Minh, Thanh, Trung Hoa Dân Quốc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thao túng, đặc biệt là từ đời Thanh Càn Long đến nay, chính phủ Trung Quốc đều ban hành các biện pháp quản lý liên quan đến Phật sống chuyển thế của Phật giáo Tạng truyền. Căn cứ nghiên cứu của các học giả, bài viết này phát hiện rằng giáo nghĩa của các chi phái đều xen tạp nội dung thuật phòng the tình dục nam nữ. Xuất phát từ điểm này, người viết tiếp tục đi sâu nghiên cứu và phát hiện nội dung tu hành chủ yếu của Mật tông Tây Tạng chính là pháp môn nam nữ song thân. Sự khác biệt lớn nhất giữa pháp môn này và phái Tính Lực của Ấn Độ giáo ở chỗ tu học song thân pháp là để thành Phật, còn nam nữ song tu của phái Tính Lực chỉ là thuật phòng the bình thường mà thôi.

Bài viết này lấy phái Cách Lỗ của Mật tông Tây Tạng làm đại diện, nghiên cứu kinh điển của họ và các trước tác của Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 – Pháp vương tối cao của Tây Tạng ngày nay, phát hiện ra rằng nội dung tu hành của Mật tông Tây Tạng đều không tách rời khỏi nam nữ song thân pháp. Về mặt bề ngoài, Mật tông Tây Tạng cũng tu học các giáo nghĩa cơ bản của Phật giáo, cũng sử dụng các loại danh tướng của Phật giáo, nhưng về phương diện Mật pháp, đặc biệt là hành giả Mật tông sau khi thụ giới Tam muội da, thì nội dung tu hành của họ khác hẳn với Phật pháp. Trước hết, giáo nghĩa của Mật tông Tây Tạng đều trái ngược với Ngũ giới của Phật giáo, cũng có nghĩa là người học Mật tông có thể sát sinh, hành dâm, ăn trộm, nói vọng ngữ (nói dối), ăn thịt, uống rượu…đều không bị coi là phạm giới. Đúng như tổ sư phái Cách Lỗ Tông Khách Ba trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” nói: ‘Ngươi có thể giết hữu tình, thụ dụng con gái của kẻ khác, không cho ngươi cứ lấy, tất cả nói vọng ngữ’”. Còn về vấn đề ăn thịt, uống rượu, trong kinh điển Mật tông và sách của Đạt Lai Lạt Ma đều ghi chép chi tiết, cho phép Lạt Ma, Thượng sư Mật tông ăn uống, lấy đó để tiến hành các nghi lễ cúng dường.v.v..

Liên quan đến giáo nghĩa của song thân pháp, Đạt Lai Lạt Ma từng thẳng thắn thừa nhận trong trước tác của mình: “Song thân là một pháp môn của đạo Mật thừa”. Qua lời thuật của Đạt Lai Lạt Ma, chúng ta biết rằng nội dung chủ yếu của nó là dựa vào Phật phụ và Phật mẫu hòa hợp song tu, lợi dụng Đại Lạc trong cơn cực khoái tình dục, đồng thời phối hợp với Không yoga và Bản tôn yoga thì có thể chứng được Không tính, khi tu luyện thành thục có thể tức thân thành Phật. Khi song tu, nam hành giả tuyệt đối không được xuất tinh. Nhờ có khí công tu luyện trước đó, anh ta có thể kéo dài thời gian bế tinh, khiến cho tinh dịch tùy ý lên xuống trong cơ thể và tăng cường lợi dụng, lấy đó để chứng ngộ Không tính. Ngoài ra, Đạt Lai Lạt Ma cũng bổ sung các điều kiện tiên quyết để tu song thân pháp, như “hành giả yoga đã đạt đến trình độ rất cao trên đạo tu hành thì hoàn toàn có tư cách thực hiện song tu”, “người tu hành có từ bi và trí tuệ kiên định mới có thể vận dụng tình dục trong đạo tu hành”.

Những gì mà Đạt Lai Lạt Ma nói, kỳ thực đều kế thừa một cách hoàn chỉnh từ lời dạy của tổ sư Hoàng giáo Tông Khách Ba trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”. Ngoài ra, nội dung của pháp môn nam nữ song tu trong Mật tông Tây Tạng đều được ghi chép chi tiết, cụ thể trong “Na Lạc lục pháp”, “Hợi mẫu thậm thâm dẫn đạo”. Nói tóm lại, nam nữ song thân pháp là pháp môn tu hành đặc biệt của Mật tông Tây Tạng, là phương pháp tu hành không hề có trong kinh điển của Phật giáo chính thống, thậm chí còn trái ngược với những lời dạy của Phật Đà. Chính vì là bí mật không thể nói cho người khác biết, cho nên trong sách của mình, Đạt Lai Lạt Ma còn đặc biệt dặn dò: “Tu tập Mật giáo buộc phải ẩn mật”. (83)


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg