The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  KHÚC CA BI THƯƠNG CỦA KHÔNG HÀNH MẪU – VAI TRÒ VÀ VẬN MỆNH CỦA NGƯỜI NỮ TRONG PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀN [1]

 

KHÚC CA BI THƯƠNG CỦA KHÔNG HÀNH MẪU – VAI TRÒ VÀ VẬN MỆNH CỦA NGƯỜI NỮ TRONG PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀN [1]

An Elegy about Dakinis-The Role and Destiny of Women in Tibetan Buddhism

空行母悲歌——女性在藏傳佛教的角色與命運

Tác giả: Trương Hỏa Khánh, Sái Chí Thành

Học báo Chính Giác, kỳ thứ 5, ngày 01.12.2011, trang 63-122

 

TRÍCH YẾU

 

Không Hành Mẫu bắt nguồn từ phái Tính Lực của Ấn Độ giáo, là người hầu nữ của “Nữ thần Ca Lê” vợ của thần Siva, thuộc về loài quỷ thần. Sau khi bị Liên Hoa Sinh đưa vào Tây Tạng, chịu sự ảnh hưởng của văn hóa tôn giáo đất Tạng mà có sự thay đổi, ví dụ như: chủng loại tăng nhiều, có Phật Mẫu, Kim Cương Du Già Mẫu, Kim Cương Hợi Mẫu, Trí Tuệ Nữ, Minh Phi, Sự Nghiệp Nữ, Thiên Nữ, Quỷ Nữ, Dạ Xoa Nữ, La Sát Nữ, Nữ Tín Sai, Cống Phẩm vân vân. Trong vai trò và chức năng xem ra có vẻ phức tạp này, điều tối quan trọng là: Phối hợp với Lạt Ma nam để tu song thân pháp. Từ các điều kiện tuyển chọn và quá trình huấn luyện của tứ đại phái Tạng truyền đối với Không Hành Mẫu có thể thấy rằng: Không Hành Mẫu chẳng qua chỉ là công cụ tình dục mồi chài dâm dục, hoàn thành song tu mà thôi. Do đó, bắt buộc phải đi tìm kiếm những cô gái trẻ xinh đẹp, âm hộ mẩy (nguyên văn: có tính đàn hồi), rồi tiến hành huấn luyện Mật pháp, Không tính, Mật giới, quán đỉnh và kỹ năng tình dục, đồng thời ban cho mỹ danh là Không Hành Mẫu Trí Tuệ, để bọn họ có được thân phận cao quý và cuộc sống sung túc trong dân gian, đồng thời sẵn sàng cung cấp công cụ tình dục để hành dâm với Lạt Ma, từ đó ảo tưởng thông qua sự gia trì của Lạt Ma trong quá trình song tu để cũng có thể “tức thân thành Phật”. Thế nhưng, trên thực tế, những người con gái này chỉ như nô lệ, là vật phẩm để cho đám đàn ông truyền nhau đưa đón: Đệ tử đưa bọn họ đến hiến tặng cho thượng sư, thượng sư xài xong thì lại trao cho đám đệ tử sử dụng; Sau một thời gian, chúng mất đi cảm giác tươi mới, thì quẳng đi không xài nữa. Đối với Lạt Ma, những người con gái này chỉ có ý nghĩa là đạo cụ và tế phẩm, chứ không thể có bất kỳ thứ cảm tình nào, cho nên “Không Hành Mẫu” trong Vô thượng Yoga chỉ là “công cụ tình dục” bị lợi dụng mà thôi.

Do diễn xuất của Không Hành Mẫu trong song thân pháp của Phật giáo Tạng truyền chỉ là hai vai trò “thỏa mãn tình dục của người nam” và “cung cấp năng lượng nữ tính”, nên Không Hành Mẫu chỉ là hư danh trong tôn giáo, cơ thể người nữ hay công cụ tình dục mới là sự thực hiển bày của dục cầu. Trong môi trường chính giáo hợp nhất do nam quyền làm chủ, thân thể và tâm linh của người nữ sẽ bị xâm phạm, bị lợi dụng, bị áp bức, bị tước đoạt. Quyền con người cơ bản nhất của Không Hành Mẫu đã bị mất đi, vận mệnh cuối cùng của họ còn bi thảm hơn. Sau khi hi sinh quyền tự chủ thân mình và sự trưởng thành về tâm trí để thỏa mãn cho sự dâm lạc và vọng tưởng thành Phật của Lạt Ma xong, cuối cùng họ sẽ bị vứt đi – bởi vì mỗi một sắc thân đều là vô thường, có thời hạn sử dụng nhất định. Mà mức độ yêu cầu của Lạt Ma đối với Không Hành Mẫu là cực lớn, hơn nữa lại thích nếm nhiều loại con gái khác nhau. Nữ hành giả trong Phật giáo Tạng truyền đều phải phụ thuộc và nam Lạt Ma như thế, họ có quyền sử dụng muốn làm gì thì làm. Vậy thì, người nữ song tu đã bị vật hóa, công cụ hóa như thế, trong logic của các nam thượng sư, những chuyện như “vắt chanh bỏ vỏ”, “có mới nới cũ” là kết luận tất yếu.

Nếu luận về vọng tưởng tà trái – tham dục là đạo, song tu thành Phật – được ngụy trang bằng danh tướng (danh từ) Phật pháp của họ, thì pháp tu song thân Vô thượng Yoga của Phật giáo Tạng truyền trước sau đều không tách rời khỏi Dục giới tham, không thật sự trì giới Bồ Tát, không đắc Căn bản định, không đoạn Ngã kiến và Ngã chấp, không chứng được thức thứ tám Như Lai Tạng, tam học lục độ đều không thành tựu, thì làm sao mà tiến tu theo thứ tự để thành Phật được đây? Đã không thể thành Phật, thì bày đặt ra cả bộ lý luận, danh từ chức vụ, điều kiện, huấn luyện, dụ dỗ và ép buộc người nữ đóng vai Phật Mẫu, Minh Phi để phối hợp song tu, cuối cùng là tu hành rơi vào khoảng không, cả hai đều thân bại danh liệt, trở thành một cú lừa dung tục. Bên nam thì vẫn còn có khả năng thọ dụng dâm lạc đến hết đời, bên nữ thì mất đi hoàn toàn nhân cách. Vụ lừa đảo của Lạt Ma giáo này, ở Tây Tạng hơn 1000 năm qua đã bị thần thoại và chính quyền cố tình che lấp, nhưng dưới sự phát triển văn minh và quan tâm nhân quyền mức độ toàn cầu hóa ngày nay, thì bắt buộc cần phải được lột trần trung thực và xét lại nghiêm túc.

 

Từ khóa: Phật Mẫu, Không Hành Mẫu, Minh Phi, Sự Nghiệp Thủ Ấn, phái Tính Lực, nam nữ song tu, Vô thượng Yoga.

 

I. LỜI NÓI ĐẦU

 

Không Hành Mẫu, là dịch ý của Dākinī trong tiếng Phạn (tiếng Hán: Đồ Cát Ni), vốn là một loại nữ thần linh, quỷ dạ xoa nằm giữa người và trời. Cô ta có đại lực, có thể bay trong không trung, cho nên gọi tên như vậy (Không Hành Mẫu - người nữ bay trong không trung). Có người cho rằng, từ nguyên của Dākinī có thể truy nguyên đến việc sùng bái người nữ trong tộc người Đạt La Tỳ Đồ (không phải tiếng Phạm) ở Tây Nam bộ Ấn Độ thời xưa (trước khi người Nhã Lợi An xâm lược Ấn Độ). Bọn họ coi “24 thánh địa” ở vùng núi Hi Mã Lạp Sơn (Everest) là nơi cư trú của Không Hành Mẫu (thân người, đầu chim thú). Người Nhã Lợi An sau khi tiếp quản Ấn Độ, đã đem những Không Hành Mẫu này chỉ cho thần Siva [2]. Lưu Uyển Lợi nói:

Trong “Tự điển Phạm Anh” (A Sanskrit-English Dictionary, 1899; rpt.1964) do Sir Monier-Williams biên soạn có ghi lại nghĩa tiếng Phạm của Không Hành Mẫu “Dākinī” là chỉ “Người hầu nữ  của nữ thần Ca Lê (Kālī) ăn thịt người” (Willis, 61, 150). Nữ thần Ca Lê ở đây là vợ của thiên thần Siva, một trong ba đại chủ thần, chủ về phá hoại của Ấn Độ giáo, là một trong các chủ thần được phái Tính Lực của Ấn Độ giáo tôn thờ. [3]

 

Không Hành Mẫu ăn thịt người, trong phái Tính Lực chính là người hầu gái của “nữ thần Ca Lê” – vợ của thần Siva, thuộc về loài quỷ thần, đây là nguồn gốc sớm nhất của Không Hành Mẫu. Bản chất của “hầu gái” là việc gì cũng phải nghe theo lời chỉ thị của chủ nhân mà phối hợp thực hiện, trong sự nghiệp của chủ nhân không được có tư tưởng chủ thể độc lập của mình, họ là sản phẩm phụ thuộc của chủ nhân. Không Hành Mẫu của Ấn Độ giáo sau khi truyền nhập vào Tây Tạng, lại có thêm một bước phát triển phụ họa tô điểm thêm, Lưu Uyển Lợi nói:

Không Hành Mẫu trong tiếng Tạng là mkha’gro ma (hoặc dịch âm là Khandroma), trong đó mkha ý chỉ “hư không”, còn ’gro thì mang nghĩa “hành tẩu, đi lại”, cuối cùng ma là tự vĩ thường chỉ người nữ. Cả từ này hợp lại thành nghĩa “Nữ hành giả trong không trung”. [4]

 

Không Hành Mẫu (Dākinī) trong Phật giáo Tạng truyền bắt nguồn từ phái Tính Lực của Ấn Độ giáo, hơn nữa là chỉ loài nữ quỷ Dạ xoa, La sát thích ăn máu thịt của con người.

Từ “Không Hành Mẫu” trong Phật giáo Tạng truyền có ý nghĩa tượng trưng đa nguyên và rất thâm sâu. Xét về mặt tu hành, Không Hành Mẫu là căn bản (root) phụ trách hộ trì Phật hành “sự nghiệp” trong “ba căn bản” (Thượng sư, Bản tôn, Không hành) nội tướng của Phật, Pháp, Tăng tam bảo, là danh từ tổng hợp của Phật Mẫu nữ tính, bậc thành tựu và đại hộ pháp. Nhưng đây chỉ là thuộc tính phương tiện về mặt phân loại, Không Hành Mẫu cũng có thể là thượng sư: như tổ sư truyền thừa dòng nữ Y Hỉ Gia Thác Gia, Mã Cơ Lạp Trác…; cũng có Lục Độ Mẫu, Kim Cương Hợi Mẫu, Diệu Âm Phật Mẫu… thuộc về dòng  Bản tôn. Những quan hệ liên đới, phức tạp này, ngoài việc khiến cho nó trở nên khó định nghĩa về mặt  danh tướng hoặc danh từ chuyên môn ra, thì cũng tăng thêm độ khó rất nhiều cho những nhiên cứu liên quan. [5]

 

Nếu dựa vào mặt từ ngữ, Không Hành Mẫu chỉ giới hạn là nữ thiên nhân hoặc quỷ thần sống trong “không trung”. Thế nhưng, hình tượng “Không Hành Mẫu” trong Phật giáo Tạng truyền trừ giữ nguyên ý nghĩa vốn có trong Ấn Độ giáo ra, thì sau khi du nhập vào Tây Tạng nó lại được diễn hóa, tăng thêm ý nghĩa nhiều tầng, vai trò và chức năng của nó trong Phật giáo Tạng truyền cực kỳ phức tạp và quan trọng, chỉ rộng đến tất cả những người nữ có liên quan đến tu hành, có thể là người truyền pháp, thượng sư hoặc pháp chủ (Phật Mẫu), người cứu độ nhân dân (Độ Mẫu), người chứng ngộ (Không Hành Mẫu Trí Tuệ), bạn tình của thượng sư hoặc Lạt Ma (Minh Phi, Sự Nghiệp Nữ), thiên nhân hộ pháp, quỷ thần hộ pháp, sứ giả của Phật Bồ Tát với phàm phu, người giữ gìn Mật tục vân vân. Thương Quyết Trác Mã nói: “Từ rất nhiều nguồn sử liệu có thể nhận ra rằng, người nam là người khởi xướng và người tham dự tích cực trong tất cả các hoạt động tôn giáo, trong quá trình lưu truyền Phật giáo họ đóng vai trò chủ yếu. Thế nhưng, điều này không thể xóa bỏ được vai trò tích cực của phụ nữ đối với sự hình thành và phát triển của Phật giáo Tạng truyền…. Ở mặt chủ đạo, thì phần đông các phụ nữ lao động chịu sự lạnh nhạt, hạ thấp, khinh thị, địa vị xã hội cực kỳ thấp kém. Nhưng ở phương diện khác, một là vì nhu cầu tôn giáo (như sùng bái nữ thần, lý luận song tu của Mật tông Tây Tạng), địa vị của phụ nữ lại rất được coi trọng.” [6] Phật giáo Tạng truyền lấy người nam làm chủ, trong quá trình truyền bá tôn giáo thì người nữ chỉ là vai diễn phối hợp, nhưng trong sự hình thành, phát triển và duy trì của Phật (Mật) giáo Tạng truyền, thì công năng đặc biệt (tình dục) mà (thân thể) người nữ cung cấp cho lại được coi là đóng vai trò quyết định bắt buộc để giành được thành tựu cao nhất. Phật giáo Tạng truyền nếu như thiếu khuyết đi Không Hành Mẫu, thì sẽ chẳng còn có chỗ thù thắng bí mật nào để nói nữa. Có thể nói, Không Hành Mẫu có liên quan đến cả vận mạng của Phật giáo Tạng truyền, họ phải chịu khuất phục trước sự dạy dỗ và sắp xếp của người truyền pháp nam (thượng sư), phải hi sinh quyền tự chủ đối với thân thể và quyền lựa chọn tôn giáo của mình, để thành tựu rất nhiều “Phật quả” của người tu hành Mật giáo. [7]

Luận văn này sẽ tiến hành những phân tích cần thiết đối với sự phân loại, ý nghĩa, nguồn gốc, diễn biến của Không Hành Mẫu trong Phật giáo Tạng truyền, đồng thời sẽ trình bày những điều kiện cần thiết phải có của một “Không Hành Mẫu chuẩn” và địa vị của họ trong bốn bộ Mật tục. Do vai trò, chức năng của Không Hành Mẫu có liên quan đến lý luận “dâm lạc” nòng cốt như Vô thượng Yoga, nam nữ song tu, Không Lạc song vận của Phật giáo Tạng truyền, nếu dùng phương thức ẩn dụ để lướt qua chủ đề này thì sẽ không thể nào làm sáng tỏ được những chỗ đặc biệt và sai lầm của “dục tham là đạo, tức thân thành Phật” của Phật giáo Tạng truyền.

Kết luận tổng thể có được dựa trên sự phân tích từ rất nhiều nguồn tài liệu là: định vị vai trò, điều kiện cần có và nội dung tu hành của Không Hành Mẫu Tạng truyền gần như đều phải “phụ thuộc” vào người nam (thượng sư), “nâng-hạ, cho-đoạt” đều do người nam quyết định; dưới nhu cầu và sự thiết kế của người nam, thì họ phải phối hợp hiến thân xả mạng, thành toàn một cách bị động cho “thực tu” của người nam, những lại không có chút rảnh rỗi để chăm nom đến đạo nghiệp của bản thân. Đến cuối cùng, bọn họ liệu có giành được thành tựu và lợi ích (ngang bằng với người nam) như trong dự kiến hay không, điều này có liên quan đến chủ đề tu chứng Phật pháp và nam nữ bình quyền, bất luận là ở lĩnh vực tôn giáo hay xã hội hiện thực, đều không thể lơ là bỏ qua.

Cho đến nay, các luận văn nghiên cứu về Không Hành Mẫu của Phật giáo Tạng truyền trong nước rất ít, gần như chỉ có bài “Truyện ký về Không Hành Mẫu và thượng sư trong Phật giáo Tạng truyền” [8] của Lưu Uyển Lợi được coi là khá đầy đủ giá trị tham khảo học thuật. Người viết sẽ lấy bài viết này làm manh mối, tham đọc các kinh tục và trước tác có liên quan của Mật giáo, để xác định được vai trò, chức năng (pháp tu song thân) của Không Hành Mẫu trong Vô thượng Yoga của Phật giáo Tạng truyền; đồng thời dựa vào đây để thảo luận hai vấn đề: Một, từ pháp nghĩa của Phật giáo để kiểm tra lý luận và sự thực của “nam nữ song tu, tức thân thành Phật” của Mật giáo. Hai, từ ý thức chủ quyền của người nam để quan sát tính “phụ thuộc” và tính “công cụ” của Không Hành Mẫu trong hệ thống Mật giáo. Đồng thời thông qua phân tích hai vấn đề này để nêu ra kết luận như sau: “Pháp tu song thân” Vô thượng Yoga tuyệt đối không thể nào giải thoát, thành Phật; lấy tiền đề này để bày đặt ra vai trò và công năng của “Không Hành Mẫu” thì sẽ trở thành trò lừa bịp của tập đoàn nam giới thượng tầng giả danh tôn giáo gây ra đối với người nữ.

 

II. NGUỒN GỐC VÀ DIỄN BIẾN CỦA KHÔNG HÀNH MẪU: TỪ ẤN ĐỘ ĐẾN TÂY TẠNG

      

Không Hành Mẫu là một loại hình tượng đặc thù từ Ấn Độ đến Mật giáo Tây Tạng, có liên quan đến sùng bái nữ tính của hai khu vực văn hóa này. Lý Nam nói:

Trong nữ thần của Kim Cương thừa Mật giáo còn có các loại thần trí tuệ, thần phương vị, thần bảo hộ, thần múa, thần cửa, thần ánh sáng, thần mặt thú, Yoga (Du Già) nữ, Đồ Cát Ni (Không Hành Mẫu) vân vân. Tạo tượng hoặc đồ điêu khắc đồng, đá của các loại thần này, hoặc là hội họa đắp đất sét xuất hiện rất nhiều ở trong các hang đá, miếu đền, cung cấp phương tiện cực lớn cho tu tập quán tưởng của các hành giả, đồng thời thu hút được rất nhiều thiện nam tín nữ, đó là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho Kim Cương thừa Mật giáo được truyền bá rộng rãi một thời… Mật giáo chủ trương lấy Phương tiện (Bi) làm cha (phụ), lấy Bát Nhã (Huệ) làm mẹ (mẫu), do đó mới lấy Phật song thân ôm nhau giao hợp làm biểu trưng của “Bi Trí hòa hợp”… Đặc biệt cần nhắc đến một chút về Đồ Cát Ni, họ lấy vật biểu trưng xuất hiện từ hình tượng phụ nữ để tiến hành minh tưởng (tưởng tượng ngầm) đối với họ trong khi tu tập. Bọn họ thông thường có hình tượng mặt mũi nanh ác, trang sức kinh người, một mạch truyền thụ từ Nan Cận Mẫu (mẹ khó gần) của nữ thần khủng bố của Ấn Độ, thường không mặc quần áo, có người chột mắt, một đùi. Thế nhưng, bọn họ do nhận thức được “Không” mà giải thoát từ trong trần thế, bay lượn trong không gian cao rộng của lĩnh vực tinh thần, là người truyền thụ tri thức bí mật.

Mật giáo trong thời kì hưng thịnh ở Ấn Độ, từng có rất nhiều người tu tập là nữ giới. Trong Mật giáo, họ thường được gắn với tôn xưng của nữ thần… Gọi họ là Đồ Cát Ni tức là nhìn nhận họ như là một Không Hành Mẫu, do nhận biết được “Không” tính mà giải thoát khỏi thế gian loài người, tự do bay lượn trong lĩnh vực tinh thần chứng được chính đạo; …(phái Tính Lực của Mật giáo, Ấn Độ giáo) cho rằng vũ trụ là do sức sáng tạo của người nữ sinh ra, do đó mà sức mạnh của người nữ từ mặt Bản thể luận mà nói là nguyên sơ nhất, chiếm vị trí hàng đầu; còn sức mạnh của người nam chỉ là phái sinh, phụ thuộc, vì thế mà quan hệ xã hội và quan hệ nghi quỹ của người nam đều phải y dựa theo phụ nữ. [9]

Khi Mật tông phát triển đến Vô thượng Yoga bộ, số lượng thần Phật thuộc nữ tính tăng lên vô cùng nhiều, địa vị ngày càng được nâng cao. Trong số họ, có một số nữ thần luôn là Phật Mẫu hoặc Bồ Tát quan trọng. Có một số nữ thần lúc vừa mới xuất hiện thì có địa vị ban đầu khá thấp, nhưng sau đó thì phát triển trở thành hạt nhân mà giáo phái sùng bái. Còn có nữ thần từng là Minh Phi của nam chủ thần, sau đó địa vị ngày được nâng lên, cuối cùng chiếm được trung tâm của đàn thành Thản Đặc La (Tantra), trong khi người bạn nam của cô ấy ngược lại bị đào thải ra. [10]

      

Các nữ thần của Kim Cương thừa Mật giáo này đại đa số bắt nguồn từ việc sùng bái “sinh thực” (sinh đẻ) trong xã hội mẫu hệ ở Ấn Độ cổ (trước khi người Nhã Lợi An xâm lược), sau đó trong Ấn Độ giáo phát triển thành phái Tính Lực, từ sự mê tín bản năng “sinh thực – sinh đẻ” chuyển thành sùng bái nữ tính (nữ thần) và sinh thực khí (cơ quan sinh dục) của họ, rồi lại thông qua “giao hợp” để hợp nhất với họ, đồng thời để chung hưởng năng lượng (tính lực) của họ. Sau khi truyền vào Tây Tạng, loại tính lực này lại xen tạp ma lực của vu thuật (đồng cốt) “Bôn giáo” (Bổng giáo) và hùa theo với tư tưởng Không tính của “Phật giáo” mà tự xưng thành Phật giáo được truyền ở Tây Tạng. Dưới đây sẽ trình bày riêng rẽ các vấn đề.

 

1. Phái Tính Lực (Shaktism) của Ấn Độ giáo và Mật giáo tả đạo

      

Ấn Độ giáo lấy ba đại thần Phạm Thiên, Tì Thấp Nô và Thấp Bà (Siva) làm chủ; Siva là vị thần hủy diệt, cũng là thần sinh đẻ. Do có sự sùng bái uy lực đối với thần Siva mà phái sinh ra sự sùng bái năng lực sinh đẻ và sùng bái nữ thần; Linga là cơ quan sinh dục của thần Siva, việc sinh đẻ do vợ ông ta Khải Lợi (Kālī) đảm nhiệm, do đó mà phân hóa ra sự sùng bái “Tính lực” của nữ thần. [11] Mã Gia Lực, Thượng Hội Bằng viết:

Phái Siva của Ấn Độ giáo sùng bái sức mạnh sinh đẻ của người nam, còn phái Thản Đặc La (Tantra) tức phái Tính Lực thì lại trái ngược với phái Siva, họ sùng bái năng lực sinh đẻ của người nữ. Phái này cho rằng, thần Siva tối cao thực tại, cũng giống như đại thần Phạm Thiên, không có năng lực hoạt động gì cả. Nhưng phối ngẫu của họ lại có sức mạnh cực lớn, tức là tính lực. Năng lực sinh đẻ của người nữ (tính lực) là cội nguồn của thế giới, thế giới chỉ có sự khai triển của tính lực, dựa vào tính lực có thể đạt được sự cứu rỗi. Phái này có đặc điểm là sùng bái nữ thần Tính lực, sùng bái Nan Cận Mẫu, Khải Lợi phối ngẫu của thần Siva, thiên nữ Cát Tường phối ngẫu của Tì Thấp Nô, thiên nữ Biện Tài phối ngẫu của Phạm Thiên…Yoga đặc biệt mà phái này tu trì áp dụng nghi thức bí mật, cúng dâng rượu, thịt, cá, cốc vật, thậm chí là thân người cho nữ thần như Khải Lợi. Nửa đêm, nam nữ thực hành “luân tọa” tức nam nữ tạp giao theo quy định của tôn giáo… Mục đích của giáo phái này là tìm cầu ngộ tính, thông qua sự trải nghiệm sâu sắc đối với tình ái mà thân chứng thần minh, để đạt đến sự siêu vượt…. Dùng lời trong “Áo Nghĩa Thư” thì chính là: “Khi một người nam và người vợ yêu quý ôm nhau, thì không biết đâu là trong, đâu là ngoài. Vậy thì, khi anh ta và linh quỷ lý trí (Minh Phi, Phật Mẫu, Không Hành Mẫu giao hợp với anh ta) ôm nhau, cũng không biết đâu là trong, đâu là ngoài.” Phái này không tin vào thuyết luân hồi nghiệp báo,…tín đồ chỉ có thể liên tục cầu đảo và cống hiến hi sinh, thì mới có thể tránh họa được phúc. Sự sùng bái đối với nữ thần, trong dân gian Ấn Độ từ xa xưa đã có rồi, Ấn Độ giáo sau khi nhiếp thu lấy tín ngưỡng dân gian, họ đã tiến hành lý luận hóa sự sùng bái này. [12]

 

Siva, nữ thần, tính lực, tạp giao, cầu đảo, cúng hiến… đó đều là các thần linh, thuộc tính và hành vi tôn giáo từ sự sùng bái nguyên thủy đã tiếp thu kế thừa tín ngưỡng Vệ Đà, phần lớn đều được quy thuộc vào Bà La Môn – Ấn Độ giáo, không hề có chút liên quan gì đến giáo nghĩa và tu hành của “Phật giáo”. Tuy rằng sau này giữa hai giáo có sự xâm nhập, lẫn lộn cục bộ, để hình thành nên cái gọi là Mật giáo Phật hóa hoặc Phật giáo Mật hóa, thế nhưng từ truy nguyên đầu nguồn, vẫn có thể phân biệt được sự khác nhau “căn bản” giữa hai bên, đây là điều đặc biệt cần phải khẳng định. Đỗ Vĩnh Bân nói:

Sự sùng bái tính lực là một đặc điểm lớn của văn hóa có tính Ấn Độ. Đại diện tiêu biểu cho sự sùng bái tính lực này, phái Tính Lực sùng bái nữ thần, cho rằng “tính – tình dục” là động lực căn bản trong vũ trụ, là sự biểu hiện tập trung của trí tuệ và sức mạnh. Nam nữ giao hợp, ôm nhau song tu mới có thể giành được sự giải thoát tinh thần và phúc lạc vô thượng. Kiểu tu luyện này khác với dâm lạc trong trần thế, chủ trương truy cầu mục tiêu cao hơn, họ vừa giao cấu vừa miệng niệm chân ngôn, khiến cho hai bên nam nữ đạt đến sự kết hợp hoàn mĩ. Quan niệm này chính là nói người tu hành lấy sự vui sướng trong tình dục để đạt được mục đích ngộ đạo. Theo họ, tình dục không phải là sự chướng ngại thành Phật, mà ngược lại, tu luyện thần lực tình dục là con đường tất yếu để thành Phật…. Mật tông chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của phái Tính Lực mà hình thành, quan hệ mật thiết với tình dục chủ yếu là ở phương pháp tu luyện của họ, tức là “bốn bộ Mật tông” gồm Sự bộ, Hành bộ, Yoga bộ và Vô thượng Yoga bộ.  Đây là bốn giai đoạn trong phương pháp tu luyện, cũng phản ánh bốn giai đoạn phát triển của Mật tông. Đặc điểm lớn nhất của Vô thượng Yoga bộ là lợi dụng người nữ để làm pháp tu nam nữ song thân “Không Lạc song vận”, trong lúc nam nữ giao cấu thì ngộ lấy Không tính. Đây là pháp tu lấy dục chế dục, lấy nhiễm đạt tịnh, tăng nhân nào không có “căn khí” thì Thượng sư sẽ không truyền thụ cho. Vô thượng Yoga trên sự thực chính là pháp Kim Cương thừa, tức là Mật giáo tả đạo, cũng chính là hành vi thực tế của đại phương tiện được thế tục hóa. “Tư tưởng đại lạc” của Mật giáo tả đạo bắt nguồn từ “phái Tính Lực” của Ấn Độ giáo. Họ lấy nhục dục tâm ý làm phương pháp thờ phụng nữ thần và sùng bái nữ thần. Lấy đó để nhiếp thụ vào trong Vô thượng Yoga của Mật tông, lại cộng thêm quan niệm “trước lấy dục dẫn dụ, sau khiến nhập Phật trí”, bèn dùng Minh Phi để tương ứng, lấy giao cấu để tu hành rồi. [13]

 

 


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg