The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  KHÚC CA BI THƯƠNG CỦA KHÔNG HÀNH MẪU – VAI TRÒ VÀ VẬN MỆNH CỦA NGƯỜI NỮ TRONG PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀN [1] -8

 Phật nói có chín loại thiền định, có thứ tự của nó, phải chứng cái trước đã, xuất nhập định thành thục, thì mới có thể tiếp tục tu tầng định sau, không được nhảy cóc. Vậy mà sự tu hành cao nhất của Mật giáo không lìa khỏi dâm dục nam nữ, tối đa chỉ đắc cảnh giới chuyên tâm hưởng lạc trong dục lạc, đến ngay cả Dục giới định [94] cũng không thể chứng đắc, thì huống hồ là Sơ thiền và định căn bản trên Sơ thiền. Phật giáo Tạng truyền tuy lồng ghép các danh tướng Phật giáo, nhưng lại không có thực chất của mình, như Tông Khách Ba nói: “Phần trước của quán đỉnh thứ ba như thế, cùng hợp thụ diệu hoan hỉ với một vị Minh Phi. Phần sau, cùng chín vị Minh Phi đẳng chí, tức từ họ mà sinh diệu hỉ.” [95] Mật giáo lấy việc giao hợp với một vị Minh Phi trong quán đỉnh thứ ba và tạp giao với chín vị Minh Phi trong quán đỉnh thứ tư, nam nữ cùng nhập vào cảm thụ cực khoái tình dục, gọi đó là “đẳng chí” trong thiền định. [96], đã không hề lìa dục lìa ác, lại còn có động tác và tâm cực tham trong giao hợp nam nữ, như thế thì làm sao mà phát khởi Dục giới định được? Huống là có thể nhập Sơ thiền? Cái gọi là đẳng chí của họ, chính là nói nam nữ đồng thời đạt đến cực khoái tình dục trong lúc hành dâm, hoàn toàn không liên quan gì đến bản chất của thiền định cả.

Nhất thiết Chủng trí là minh chứng của việc thành Phật, còn Vô sinh pháp nhẫn có được khi các Bồ Tát tu học Nhất thiết Chủng trí gọi là Đạo Chủng trí, duy chỉ ở Phật địa mới có đầy đủ viên mãn Nhất thiết Chủng trí. Mà nội dung của Nhất thiết Chủng trí lại là trí tuệ của tất thảy mọi chủng tử tàng chứa trong thức thứ tám. Việc đạt được trí tuệ này, bắt buộc sau khi thân chứng được Như Lai Tạng, thông đạt các kinh điển hệ Bát hã, thành tựu Biệt tướng trí, rồi phải đi theo các bậc đại thiện tri thức tu học Đạo Chủng trí theo thứ tự, đồng thời phải tích vô lượng phúc đức thì mới có nhân duyên mà thành tựu. Thích Ca Thế Tôn thì đời đời kiếp kiếp thường theo chư Phật tu học, tu học Vô sinh pháp nhẫn, cúng dường chư Phật mười phương, giáo hóa vô lượng chúng sinh, quảng tu Lục độ ba la mật, tích lũy sâu dày hai tư lương phúc tuệ, cuối cùng giáng sinh ở nhân gian, thì mới đắc viên mãn Nhất thiết Chủng trí. “Đại trí độ luận” quyển 57 nói: “Này Kiều Thi Ca! Không lấy thân này gọi là Phật, vì đắc Nhất thiết Chủng trí mà gọi là Phật.” [97] “Đại trí độ luận” quyển 84 lại nói: “Phật tự nói nghĩa lý Nhất thiết Chủng trí, có hai loại tướng: Thứ nhất, vì thông đạt Thực Tướng của chư pháp mà tịch diệt tướng, như trong nước biển lớn gió không thể động, vì độ sâu thẳm mà sóng không nổi lên; Nhất thiết Chủng trí cũng giống như vậy, gió hí luận không thể lay động. Thứ hai, tất thảy chư pháp có thể dùng danh tướng văn tự để thuyết giảng, thông đạt rõ ràng không có chướng ngại. Vì nhiếp hai việc hữu, vô, gọi là Nhất thiết Chủng trí.” [98] Nếu như không thể thực chứng Không tính Như Lai Tạng, thì không thể nào tiến tu theo thứ tự mà thành tựu Nhất thiết Chủng trí; Nếu không có Nhất thiết Chủng trí, thì không thể viên mãn “Tứ trí ở Phật địa” mà thành Phật được. Do đó, cái gọi là “tức thân thành Phật” trong tu tập song thân pháp của Phật giáo Tạng truyền chỉ là những danh tướng (danh từ) dựa vào cảnh giới Dục giới mà sinh ra vọng tưởng, ngang nhiên trái lìa với Lục độ, tăng trưởng tam độc (tham sân si) mà lưu chuyển sinh tử, đều không thể biết cũng không thể chứng trong đạo Giải thoát và đạo Phật Bồ Đề, về mặt bản chất không được chúng là “Phật giáo”, cũng không thể thành tựu Phật Vô thượng Chính đẳng Chính giác có đầy đủ mười danh hiệu.

Ở trên là nhằm vào sự mê muội lạc lối trong “sùng bái tính lực” và “pháp tu song thần” mà nói, cho dù mục tiêu của nó là nắm bắt lấy “động lực vũ trụ”, hoặc đạt đến “tức thân thành Phật”, thì cũng đều là những sự bày đặt sai lầm. Pháp sư Thánh Nghiêm nói:

Tư tưởng gốc rễ của Phật giáo coi dâm dục là nguyên nhân chính dẫn đến sinh tử của chúng sinh. Hành vi giao hợp nam nữ là ác pháp gây chướng ngại cho đạo Giải thoát....Mật thừa của thời kì cuối, do chịu ảnh hưởng của phái Tính lực thuộc Ấn Độ giáo, nên mới có pháp môn vô thượng lấy dâm hành làm tu đạo.... Loại tư tưởng này chui vào trong Mật thừa, liền khiến cho Phật học hóa, lấy đại trí “Bát Nhã”, đại bi “Phương tiện” để thích ứng với nó, nên mới thành lập ra nguyên lý nam tính và nữ tính. Đem “Không” tính của Bát Nhã phối hợp với âm hộ của người nữ; “Hữu” tướng của Phương tiện phối hợp với dương vật của người nam; ... Kết quả của bi trí song vận chính là đại lạc của Niết Bàn (Mahāsukha đại hạnh phúc), sự ôm nhau giao hợp của song thân nam nữ chính là nguyên tắc tối cao của Vô thượng Yoga. Do đó mà thành lập nên Kim Cương thừa bản tính (Sahajīya -Vajrayāna). Bởi vì đại lạc của Niết Bàn là sự dung hợp của Không tính Bát Nhã và Hữu phương tiện, đó là cảnh giới tuyệt đối vượt lên trên hữu và vô, chủ và khách, thanh tịnh và tạp nhiễm. [99]

 

Kỳ thực, tính lực (sức sinh sản) của nam nữ không phải tự nhiên sinh ra. Theo Phật pháp mà nói, đó là sự vận hành “ái dục” phát động (cơ quan) sinh lý, dựa vào nghiệp lực mà hoàn thành một số quả báo nào đó, như hưởng lạc, sức khỏe, con cháu, mà “ái dục” duyên vào “hành – vô minh”. Do đó, hành vi hoặc sự tu luyện để theo đuổi cái đại lạc toàn thân, chỉ có thể làm tăng trưởng sự ngu si và tham chấp, đi ngược với trí tuệ và từ bi; huống hồ là tất cả các hành vi tình dục (song tu) và cảnh giới ý thức (Lạc Không) đều từ Như Lai Tạng mượn duyên mà sinh ra, mà hiển hiện. Nếu không ra sức đi theo pháp tu chính xác để cầu chứng Như Lai Tạng, thì không thể nào dò tìm ra được cội nguồn của sinh mệnh, thì làm sao mà có thể theo thứ tự tiến tu Bát Nhã trí, Đạo Chủng trí, đồng thời lợi tha nhiều kiếp, quảng tích đại phúc đức mà thành Phật được đây?

 

VI. ĐẦU LOẠN CUỐI VỨT: KHÚC CA BI THƯƠNG CỦA NGƯỜI NỮ TRONG PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀN

 

       Như trên đã phân tích: pháp tu song thân Vô thượng Yoga của Phật giáo Tạng truyền không lìa Dục giới tham, không trì Bồ Tát giới, không đắc căn bản định, không đoạn Ngã kiến Ngã chấp, không chứng thức thứ tám Như Lai Tạng, tam học lục độ đều không thành tựu, thì làm sao có thể tiến tu theo thứ tự mà thành Phật được? Đã không thể thành Phật, thì cho dù có bày đặt ra cả một hệ thống lý luận, chức danh, điều kiện, huấn luyện, dụ dỗ ép bức người nữ đóng vai Phật Mẫu, Minh Phi để phối hợp song tu, cuối cùng là tu hành rơi vào trống rỗng, Thượng sư và nữ đệ tử lưỡng bại câu thương, trở thành một trò lừa dung tục. Bên nam thì vẫn còn có thể cả đời hưởng thụ dâm lạc, còn bên nữ thì hoàn toàn mất đi nhân cách.

 

1. Sự bóc lột “thân thể”

Lấy sắc thân làm vật cúng tế, tùy ý bày đặt, phối hợp hành dâm – là công cụ tình dục của nam Thượng sư. Bắt đầu là từ việc lừa dối (lợi dụng), cuối cùng là vứt bỏ. “Kim Cương du già mẫu” nói:

Trong Tục thừa có bốn bộ pháp tu. Không phải mỗi một bộ trong đó đều có năng lực khiến hành giả có thể nhanh chóng cứu độ hữu tình... duy chỉ có “Vô thượng Yoga tục” mới có đủ đại lực này. Vô thượng Yoga tục là pháp tu tục bộ cao cấp nhất....Từ “La-me gyu” là chỉ tục bộ không có cái nào cao hơn nó. [100]

 

“Có thể nhanh chóng cứu độ hữu tình” là đại lực mà Phật giáo Tạng truyền thường lấy đó làm tự hào. Thế nhưng, quán xét phương pháp cái mà Vô thượng Yoga tục gọi là “cứu độ” thì lại là pháp song thân nam nữ, dẫn dắt chúng sinh cùng thân làm việc tà dâm, miệng nói đại vọng ngữ, ý khởi tham sân si, thầy trò cùng tạo nghiệp ác đạo, cùng dắt tay nhau nhảy vào hố lửa. Điều này đối với hành giả Phật giáo muốn cầu giải thoát, chứng Bồ Đề mà nói là dự dạy dỗ tà ác mà muốn tránh e còn không kịp. Thế nhưng, hơn 1000 năm nay, các tổ sư Mật thừa ra sức biên tạo các bộ tục luận, đem những thứ kiểu “dâm hành”, “vọng tưởng” thực hiện hợp lý hóa, thần thánh hóa, mê hoặc các tín đồ đất Tạng; đặc biệt là những người nữ (Không Hành Mẫu) mà “pháp tu song thần” cần đến, ngay từ đầu đã được tuyển chọn qua vật chất sắc đẹp, thì đã cố tình lừa dối rồi: Lấy chức danh cao quý, lời hứa thiêng liêng và mệnh lệnh uy quyền, ngang nhiên đi các nơi lừa đảo gái trinh “nhà lành”, có thể nói là nửa lừa nửa cướp. Thế nhưng, đại đa số các cô gái sau khi đã trở thành Phật Mẫu, Minh Phi song tu, ngoài việc chuyên nghề đóng vai công cụ tình dục hoặc nô lệ tình dục ra, thì họ không có chút thân phận hay hoạt động cao sang nào cả; hơn nữa còn tùy theo vui giận thất thường và có mới nới cũ của các nam Thượng sư, nội tâm họ thường bị dày vò, thiếu khuyết cảm giác an toàn; thậm chí không lâu sau sẽ bị rũ bỏ, đuổi đi, ở mức độ nghiêm trọng hoặc vì bị dày vò quá mức mà mất mạng. [101]

Còn về các Thượng sư Phật giáo Tạng truyền sở dĩ họ có thể bạo gan lừa dối, ép bức các thiếu nữ, ngược đãi các bé gái như vậy, đó là vì hành vi như thế trong pháp nghĩa và giới luật của tôn giáo họ là được quy định, được khuyến khích, như trong cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận”, Tông Khách Ba có nói:

Lìa tham dục như vậy, các người rốt cuộc không nên làm; Ngươi thọ dụng chuyện dục, cứ làm không phải sợ; Ăn ngũ nhục cam lộ, cũng bảo vệ lời thề; không nên hại chúng sinh, không nên bỏ nữ bảo, không nên bỏ sư trưởng, tam muội da [102] khó trái. Nhờ huệ phương tiện tâm, không thiếu không nên làm, người vô tội đừng sợ, như Như Lai đã nói; tâm ý tịnh tín kim cương tính, tự thề y chỉ vô tận lạc, thiếu lạc các nẻo ngươi sẽ đến, kim cương tát đỏa thường trụ tính. [103]

 

“Tham dục là đạo” như thế, ăn thịt uống cam lộ và “không nên bỏ nữ bảo”, toàn là để thọ dụng chuyện dâm dục, nương dựa vào khoái lạc vô tận. Đối với nam giới ở cõi Dục giới có bản năng động vật thôi thúc như vậy, đó là thọ dụng cầu mà không được, nay càng vì có sự gia trì của sư trưởng và sự mở lối cho phép của tam muội da, dưới sự đảm bảo của hành dâm vô tội, các Lạt Ma sẽ muốn làm gì thì làm, không việc gì phải kiêng kị nữa. Thế nhưng, những người nữ như Không Hành Mẫu, Minh Phi dưới áp lực kép của quyền uy nam giới và bóng ma tôn giáo, họ chỉ có thể để mặc cho người ta cắt tiết. Người nam thế gian ai nấy đều đem “nữ thể” vật cách hóa thành công cụ giải tỏa tình dục, còn Phật giáo Tạng truyền thì thần cách hóa họ thành đạo cụ, bề ngoài tuy có phân cao thấp, đều là sự làm nhục nhân cách phụ nữ; thế nhưng, cái trước xuất phát từ việc vô tri, cũng dễ chỉnh sửa; cái sau thì lại cố tình lừa dối, hơn nữa lại là sự lừa dối có tính tập thể, khó mà đối trị được.

Phật giáo Tạng truyền cho rằng sau khi bộ phận sinh dục của Không Hành Mẫu được gia trì, thì lập tức có thể thành “hàng thượng diệu phẩm cúng Phật”, như “Na Lạc lục pháp” nói:

Trong “Kinh bí mật” có nói: “Thế gian có bốn vật không thể rời bỏ”, đó là, một, hoa; hai, rượu; ba, giao cấu; bốn, vật tam bảo.” Ba loại đầu nhìn thô thì dường như không tốt đẹp lắm, nhưng người có lực thì có thể gia trì cho nó, để trở thành diệu phẩm vô thượng cúng Phật....Hoa thì có chia làm hoa trong và hoa ngoài. Hoa ngoài tức là hoa trong hoa cỏ, hoa trong thì người nữ mới có. Đóa hoa của người nữ này, nếu như khéo biết dùng nó, thì có lợi ích không gì to lớn bằng. Nếu không khéo dùng nó, thì lại di hại vô cùng đó. [104]

 

Hoa trong (nội hoa) là từ đại diện cho “nữ âm”, là chỉ chỗ kín bất tịnh, vốn không nên lộ ra nơi công cộng, huống hồ là đem đến chỗ Tam bảo để cúng? Mật giáo lại hoang đường nói: Thông qua sự gia trì của bậc hữu lực thì có thể trở thành “diệu phẩm cúng Phật”, nếu có thể khéo dùng nó (hợp tu song thân pháp) thì sẽ có “lợi ích không gì to lớn bằng”. Đây có lẽ là chuyện kì quái thiên cổ, cái gọi là diệu phẩm, lợi ích đều là sự cuồng tưởng Mật giáo xuất phát từ “tình dục của đàn ông”. Lấy đó làm chính, cộng thêm “uống rượu, giao hợp”, lại cho rằng giá trị của “nữ âm” ngang bằng với “vật Tam bảo”. Thoạt nhìn thì dường như đang nâng cao địa vị của người nữ, nhưng suy nghĩ kĩ thì lại lấy cơ thể người nữ chỉ giới hạn ngắn lại ở bộ phận sinh dục, đồng thời vật cách hóa thành đồ cúng, lấy đó để làm ô nhục Tam bảo Phật giáo!

Tiếp đến, hãy xem sự quán đỉnh trong Mật giáo, có nói rằng: “Quán đỉnh là tâm yếu căn bản của tất thảy chứng ngộ, nếu chưa đạt được quán đỉnh mà truyền thừa giáo thụ của Mật tục, thì thượng sư và đệ tử đều sẽ đọa vào trong ác đạo dưới cùng.” [105] Quán đỉnh có nghĩa là “trao quyền”, tức là truyền thụ quyền lực tu Mật, quán đỉnh thực sự (của họ) là chứng ngộ tâm Ý thức của mình và cảm giác dâm xúc đều là vô hình vô sắc. Bốn bộ Mật pháp, bộ nào cũng có quán đỉnh khác nhau, nếu chưa trải qua sự quán đỉnh, thì không có quyền tu Mật pháp. Đạt Lai Lạt Ma nói:

Sách luận của Nguyệt Xứng đem toàn bộ Mật tục chia thành 5 thứ tự...., bởi vì đạo có thứ tự khác nhau, cho nên có thành thục bốn loại quán đỉnh của đạo này mới trao quyền cho hành giả tu trì sinh khởi thứ đệ. Thứ nhất là bình quán, thứ hai là bí mật quán, ... thứ ba là trí tuệ quán, ...thứ tư là văn tự quán. [106]

 

“Quán đỉnh bảo bình”: Hành giả Mật tông trước hết cúng hiến cho Thượng sư một vị Minh Phi. Thượng sư sau khi tiếp nhận, thì lại đem Minh Phi trao lại cho hành giả. Hành giả vuốt ve bầu vú của Minh Phi, ôm ấp cơ thể của cô ấy, qua đó mà dẫn phát đại tham (hưng phấn tình dục), bởi vì bầu vú của Minh Phi giống như cái bình đựng sữa, cho nên quán đỉnh này mới gọi là quán đỉnh bảo bình. “Quán đỉnh bí mật”: Thượng sư và Minh Phi hành dâm, cùng lên cơn cực khoái tình dục, sau đó thu gom lấy chất hỗn hợp tinh dịch của Thượng sư và dâm dịch của Minh Phi (tức bạch Bồ Đề tâm và hồng Bồ Đề tâm), đặt vào miệng của đệ tử cho nuốt xuống, đồng thời ngắm nhìn bộ phận sinh dục nữ của Minh Phi (liên hoa) để dẫn sinh ra kích thích tình dục lớn hơn. “Quán đỉnh trí tuệ”: Thượng sư đem chính vị Minh Phi đó trả lại cho đệ tử, yêu cầu đệ tử và Minh Phi này hành dâm đến khi lên cơn cực khoái tình dục. “Quán đỉnh văn tự” (quán đỉnh danh từ): Đệ tử và Minh Phi cùng nhập vào song vận, nhưng để duy trì cực khoái tình dục liên tục, thì phải ghìm bế tinh, không tiết xuất ra đầu của cơ quan sinh dục (bảo chùy kim cương). Bốn loại quán đỉnh này đều có liên quan đến người nữ, ở đây dựa vào “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” của Tông Khách Ba mà nói vắn tắt nội dung của nó như sau [107]: “Ban đầu tiếp xúc với vú trí tuệ an lành, tức là bình quán đỉnh.... Vì lấy tâm Bồ Đề của phụ mẫu làm quán đỉnh vật bí mật, nên gọi là mật quán đỉnh.” Lại nói: “Quán đỉnh thứ ba, tuệ gọi là thắng trí, vì ở đây có gọi là ngoại ấn. Trí gọi là tâm lìa phân biệt từ nơi đó sinh ra, thanh tịnh cùng sinh hoan hỉ.” Đây là nói sau khi nếm dâm dịch sinh ra từ cuộc giao hợp của Thượng sư và Minh Phi, hiểu được “vị đại lạc” mà dẫn sinh ra trí tuệ làm thế nào để phát khởi dâm lạc, diệt trừ suy nghĩ “dâm dịch bất tịnh”; nhưng vẫn chưa đích thân song tu, cho nên gọi là ngoại ấn. Lại nói: “Mật quán đỉnh sau khi truyền, là chỉ Thượng sư cùng chín Minh Phi từ 12 đến 20 tuổi đẳng chí (cùng đạt cực khoái), lấy câu chủng kim cương rót vào miệng đệ tử, dựa vào đó mà quán đỉnh... Cùng chín vị Minh Phi đẳng chí tức là với từng người sinh ra diệu hỉ... Đó gọi là quán đỉnh thứ tư thế tục.” Nam đệ tử mới bắt đầu học quán đỉnh thứ ba, Thượng sư tuy đã giải thích về đạo lý song thân pháp, nhưng vẫn e sợ nam đệ tử vẫn không thể hoàn toàn hiểu hết các loại thiện xảo và lý luận chi tiết trong thực tu, hơn nữa đệ tử đó lĩnh thụ lạc xúc trong quán đỉnh thứ ba cũng còn ít, vẫn chưa thể nào lĩnh thụ được Lạc Không bất nhị, cho nên bắt buộc phải nói rõ chi tiết ngay tại hiện trường trong quá trình Thượng sư giao hợp cùng chín vị Minh Phi ở quán đỉnh thứ tư; sau đó thu thập hỗn hợp tinh dịch của Thượng sư và dâm dịch của chín vị Minh Phi mà thành “câu chủng kim cương”, trút vào trong miệng đệ tử, sau đó đem một phần hoặc toàn bộ Minh Phi ban cho đệ tử để hợp tu, Thượng sư lại đứng bên cạnh chỉ đạo lâm sàng, thì mới có thể lĩnh hội được “thắng lạc” của đệ tứ hỉ trong lúc thực tu, do đó mà thành tựu viên mãn “công đức” của đệ tứ quán. Cái gọi là “Minh Phi cấm hành” là nói:

Trong đây trao ba cấm hành (Minh, Kim Cương, Hành), việc trao Minh Phi cấm hành là nói sau quán đỉnh thứ tư, đem tay Minh Phi đặt vào tay đệ tử, lấy tay trái của mình cầm hai tay họ, lấy tay phải trì Kim cương đặt lên đỉnh đầu đệ tử. Dạy rằng: “Chư Phật chứng việc này, ta đem nàng trao ngươi”, nói như thế là chư Phật làm chứng. “Không phải pháp khác có thể thành Phật, cái pháp này có thể thanh tịnh ba nẻo, cho nên ngươi và nàng, đến cùng cũng không được lìa bỏ. Điều này là tất thảy mọi Phật, vô thượng Minh cấm hành, nếu kẻ ngu làm trái, không được lên tất địa.” Trao cho Minh Phi cấm hành.... Xả bỏ Minh Phi cụ tướng, lấy phương tiện khác không thể nào nhanh chóng thành Phật.... Là nói ba cõi do có cái này thanh tịnh, cho nên ngươi không nên lìa bỏ Minh Phi này. Do có Minh Phi cụ tướng tu hành đại lạc tam ma địa, là tất thảy Phật vô thượng Minh Phi cấm hành....Cái nghĩa của cấm hành, là nói để đắc tất địa của tất thảy Như Lai,, nên quyết định cần phải làm. [108]

 

Nghĩa là nói, phải cùng người nữ thật thực tu song thân pháp, thì mới có thể đạt đến thành tựu cao nhất. Muốn tu pháp này thì trước hết buộc phải thụ Tam muội da giới của Mật tông (14 giới căn bản và tám tội thô). Nội hàm của giới này toàn là bày đặt ra để phương tiện tu song thân pháp. Sau khi thụ giới này, song thân pháp sẽ trở thành chuyện không hề có cấm kị, mỗi ngày đều bắt buộc phải tu. Nay xin nêu mấy điều khoản trong đó làm chứng:

Điều 5, đoạn tâm Bồ Đề rễ chính pháp: xả bỏ hoặc làm rớt mất tâm Bồ Đề năng sinh bất biến đại lạc (tinh dịch), thì tức là phạm giới; tức là phải nương dựa vào Minh Phi hành dâm cùng nhập vào cực khoái tình dục, nhưng bế tinh không tiết xuất. Điều 13, không dựa vào tam muội da đã đắc (từ chối thụ vật câu thề): tu trì Vô thượng Yoga song thân pháp phải định kỳ làm hội cúng, thọ dụng những thứ gia trì đặc biệt như rượu, thịt, không ăn tức là phạm giới. Điều 14, hủy báng tự tính trí tuệ của phụ nữ: nương dựa vào xúc lạc hai căn hòa hợp do nữ căn sinh ra, có thể tăng thượng trí tuệ Lạc Không, cho nên không thể hủy báng cơ quan sinh dục (trí tuệ) của người nữ, nếu không là phạm giới. [109]


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg