The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  KHÚC CA BI THƯƠNG CỦA KHÔNG HÀNH MẪU – VAI TRÒ VÀ VẬN MỆNH CỦA NGƯỜI NỮ TRONG PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀN [1] -11

 Qua đó có thể thấy rằng, Mật giáo Tây Tạng xây dựng trên song thân pháp Vô thượng Yoga, về mặt bản chất là sự sùng bái tính lực (sinh đẻ) mà xuất phát từ ảo tưởng tình dục và kết thúc ở thỏa mãn tình dục. Tuy là họ khoác lên tấm áo Phật giáo, nhưng xưa nay đều không phải là Phật pháp. Hơn nữa, Mật giáo lan khắp đất Tây Tạng, kéo dài 10 thế kỉ, từ chính trị đến tôn giáo, đều là tư duy và thực tiễn của nam quyền lãnh đạo; danh nghĩa “Không Hành Mẫu” từ đầu đến cuối đều mang tính phụ thuộc, tính công cụ, đồng thời không có bất cứ nhân cách “độc lập” và tu chứng “loại bỏ giới tính” nào - ở Nhân địa là “Minh Phi”, ở Quả địa là “Phật Mẫu”, nhưng vẫn không phải là Phật. Có thể nói, sự kỳ thị giới tính trong Mật giáo Tây Tạng là rất triệt để, nó xuyên suốt qua cả tục đế và thánh đế, một đời làm con gái, vĩnh kiếp làm Phi, Mẫu. Mà giá trị tôn giáo của người nữ trong Phật giáo Tạng truyền lại nghiêng về chức năng của “sắc thân”, hơn nữa chỉ rút gọn giới hạn ở “cơ quan” của thân thể - vú và âm bộ. Cuối cùng, cái gọi là “người nữ” cũng không hề tồn tại nữa, mà chỉ còn lại Yoni [130] mang tính tượng trưng, chả trách ý nghĩa hình ảnh của Không Hành Mẫu lại bắt nguồn từ người hầu nữ (Đồ Cát Ni - Dākinī) của vợ (Ca Lê) thần Siva của Ấn Độ, đó là sự thấp kém “kép”. Tuy để bấu víu vào Phật giáo mà nêu “Bà Tu Mật Đa” trong “Kinh Hoa Nghiêm” làm người phát ngôn cho song thân pháp, nhưng thứ nhất, Bà Tu Mật Đa trong kinh Phật là trường hợp đặc biệt và là chứng cứ đơn lẻ [131], không thể mở rộng ra để giải thích rằng đó là thông lệ trong Vô thượng Yoga của Mật giáo; thứ hai, tu chứng của Bà Tu Mật Đa trong Phật pháp là Thập hành vị [132], còn chưa có (chứng lượng) Đạo Chủng trí, không thể như Mật giáo thổi phồng lên là có thể khiến người ta tức thân “thành Phật” (thành Phật bằng ngay thân này đời này); thứ ba, “trước lấy dục dụ dỗ, sau khiến nhập Phật trí”, những người hành dục với Bà Tu Mật Đa quả thực đều nhập vào trong Phật pháp đoạn Ngã kiến và chứng được trí tuệ Bát Nhã của Như Lai Tạng, và cũng từ đó đoạn được dâm, chứ không như Mật giáo là nhập vào ngoại đạo kiến, cả đời hành tà dâm.

Sự bày đặt ra Không Hành Mẫu chỉ là một ví dụ vốn đầy rẫy tư tưởng hoang đường và tà pháp của Mật giáo, ngoài ra còn có những thứ khác như sùng bái Thượng sư, giới Tam muội da, Phật sống chuyển thế… đều là những quái lực loạn thần đếm không hết, ít nhiều đều củng cố cho quyền uy chủ đạo của người nam trong song thân pháp Mật giáo tối cao, không được nghi ngờ, cũng không được làm trái ngược.

Cuối cùng, chúng ta hãy xem giải tích ba lớp của Lưu Uyển Lợi về Không Hành Mẫu:

Ngoại mật: Các loại hình dáng hiển hiện bề ngoài, như người hoặc thần, Tịch tĩnh tôn hoặc Phẫn nộ tôn, có lợi ích hoặc gây nguy hại đối với loài người.

Nội mật: Khi hành giả cao thâm chuyển hóa thành công bản thân thành Không Hành Mẫu vĩ đại (Thân Bản Tôn Kim Cương Du Già Mẫu), thì mới hiển hiện.

Mật mật: Uy lực, năng lượng vô hình và sự gia trì thuần tịnh của Không tính. [133]

 

Thế nhưng, căn cứ nguồn gốc Ấn, Tạng của Không Hành Mẫu, và chức năng của họ trong song thân pháp ở Mật giáo, thì có thể đảo ngược thứ tự của nó, thì mới tương đối ăn khớp với sự thực:

Ngoại mật: Các loại hình dáng hiển hiện bề ngoài, như người (ni tăng) hoặc thần (La Sát), Tịch tĩnh tôn hoặc Phẫn nộ tôn (xem hình ảnh).

Nội mật: Trí tuệ, từ bi, cứu độ được gán ghép và tượng trưng bằng quan niệm danh tướng của Phật pháp (Phật giáo)

Mật mật: Bị mê hoặc bởi “hư danh” mà tự nguyện hoặc bị cưỡng bức quan hệ tình dục (song tu) với Thượng sư, sau đó thì vứt bỏ hoặc chết thảm, nhưng trong tu hành lại không có bất cứ thành tựu gì.

 

----------------------------

 

CHÚ THÍCH:

 

[1] Cụm từ “Phật giáo Tạng truyền” nói trong bài viết này là sử dụng lối nói của giới học thuật, như bài “Nghiên cứu sơ bộ về sự phát triển của Phật giáo Tạng truyền ở Đài Loan” của Dao Lệ Hương nói: [Phật giáo Tạng truyền là hình thức địa phương độc đáo của sự phát triển Phật giáo sau khi truyền nhập vào Tây Tạng, về tên gọi của nó lâu nay trong giới học thuật có những ý kiến khác nhau, có người gọi là “Lạt Ma giáo”, có người gọi là “Phật giáo Tây Tạng” hoặc “Phật giáo Tạng truyền”, lại có người gọi thẳng là “Mật tông Tây Tạng” hoặc “Tạng Mật”. Từ “Lạt Ma giáo” là tên gọi mà các nhà nghiên cứu nước ngoài dùng khi giới thiệu về Phật giáo Tây Tạng thời kỳ đầu, khi ấy tên gọi này ngầm chứa ý nghĩa phủ định “hình thái trộn lẫn đọa lạc cấp thấp”... Theo ý kiến của Thỉ Kì Chính Kiến (Yazaki Masami), vì Phật giáo Tây Tạng có sự đặc sắc cơ bản: do các yếu tố mang tính chú thuật, tôn sùng khác thường đối với Lạt Ma, nhận định “Lạt Ma tức là Phật sống” tạo nên... Cách gọi “Tạng Mật” cũng không thể hàm chứa nghĩa của nó, tuy trong Phật giáo Tây Tạng, Mật tông hưng thịnh hơn Hiển tông, theo thói quen thì cũng coi Mật tông là tinh túy của Phật giáo Đại thừa,... Do đó, để thể hiện nhìn nhận đến tính tổng thể của nó, đồng thời vì sự tiện lợi trong nghiên cứu, bài viết này sẽ dùng từ “Phật giáo Tạng truyền” để phân biệt với Phật giáo Hán truyền chủ yếu ở Đài Loan.] “Học báo trung tâm nghiên cứu Phật học” kỳ 5, Trung tâm Nghiên cứu Phật học, Viện Văn học, Đại học quốc lập Đài Loan (Đài Bắc), năm 2000, trang 315-338. Địa chỉ mạng: http://ccbs.ntu.edu.tw/FULLTEXT/JR-BJ011/93567.htm.

Đoạn văn này cung cấp cho chúng ta mấy luận điểm: 1. Quan điểm của các nhà nghiên cứu nước ngoài thời kỳ đầu và Thỉ Kì Chính Kiến đã nói đúng về tính chất của Mật giáo Tây Tạng, do đó, đây là cách gọi chính xác nhất. 2. Phật giáo Tây Tạng là một tên gọi rộng mà không đúng sự thật, chỉ là để bám víu lấy Phật giáo, bề ngoài thì có chứa cả Đại thừa, Tiểu thừa, Hiển giáo, Mật giáo, nhưng trên thực chất thì chỉ có Mật giáo, thì chỉ có thể nói là Quỷ thần giáo ngoại đạo đội lốt Phật. Nếu như khảo sát từ nghĩa lý chân thực của Phật pháp và lịch sử tôn giáo Tây Tạng thì cái mà Tây Tạng được truyền từ Ấn Độ và phát triển từ bản địa chỉ có Mật giáo, không phải là Phật pháp. Do đó, “Phật giáo Tạng truyền” là cái tên suông thiếu thực chất về Phật pháp, hoặc là nói, Phật giáo mà người Tạng tự xưng, kỳ thực là Mật giáo, là một loại tôn giáo pha trộn, đồng với tín ngưỡng dân gian, là pháp ngoại đạo Mật giáo đã biến chất ở thời kỳ sau của Phật giáo Ấn Độ, lại cộng thêm Bôn giáo của đất Tạng, nên về bản chất là pháp quỷ thần chú thuật, chứ không phải là Phật giáo. Cái tên gọi ăn khớp với sự thực là “Mật giáo Tây Tạng” hoặc “Lạt Ma giáo” – tuy nhiên các thầy tôn giáo đất Tạng và (một số) nhà nghiên cứu Phật học không đồng ý, vẫn sử dụng sai lầm cái tên “Phật giáo Tạng truyền”, đồng thời cho rằng tính chất của nó ngang đồng với “Phật giáo Hán truyền”, và xếp vào nhóm truyền bá mang tính khu vực “Phật pháp Đại thừa Bắc truyền”. Bài viết này tuy áp dụng thuật ngữ của học thuật, nhưng không tán đồng danh nghĩa của nó, cái thực chất của “Phật giáo Tạng truyền” trong bài viết vẫn là Lạt Ma giáo, Mật tông Tây Tạng. Ngày sau sẽ viết riêng một chuyên luận (tạm đặt nhan đề là “Từ lý luận ‘phán giáo’ khảo sát tính hợp pháp của sự phân lập ‘Hiển, Mật’”) để làm rõ vấn đề này.

 

[2] Quỳnh Na Nặc Bố Vượng Điển viết, “Kim Cương, Không Hành, Hộ Pháp trong Đường Khải”, nhà xuất bản Đại học Sự phạm Thiểm Tây (Tây An), tháng 5/2007, trang 114. Cuốn sách này có giải thích riêng của Mật tông: Truyền thống Không Hành Mẫu là một loại truyền thống khắp châu Á sớm hơn nữa, bắt nguồn từ giáo nghĩa của Phật từ thời đại viễn cổ. Sau khi trải qua nhiều thế kỷ, thì truyền thừa này bắt đầu trở nên hủ bại suy nhược. Thế là, Phật Thích Ca Mâu Ni đã lấy hình tướng Đại Nhật Như Lai và Kim Cương Tổng Trì để thu thập lại các truyền thừa này, để cho nó khôi phục trở lại trạng thái thuần tịnh như nguyên sơ, đồng thời đổi mới thêm cho nó, để thích ứng với nhu cầu của thời đại.

Đây có lẽ là lối nói biên cải của nội bộ Mật giáo thời kỳ sau, để nhằm nâng cao địa vị của nó mà vượt lên trên Phật giáo chính thống, không liên quan gì đến nguồn gốc và sự thực của Không Hành Mẫu, cho nên không áp dụng.

 

[3] Lưu Uyển Lợi viết, “Truyện ký về Không Hành Mẫu và thượng sư trong Phật giáo Tạng truyền”, đăng trong “Học báo trung tâm nghiên cứu Phật học”, kỳ 7, Trung tâm Nghiên cứu Phật học, Viện Văn học, Đại học quốc lập Đài Loan (Đài Bắc), tháng 7 năm 2002, trang 218.

 

[4] Lưu Uyển Lợi viết, “Truyện ký về Không Hành Mẫu và thượng sư trong Phật giáo Tạng truyền”, đăng trong “Học báo trung tâm nghiên cứu Phật học”, kỳ 7, Trung tâm Nghiên cứu Phật học, Viện Văn học, Đại học quốc lập Đài Loan (Đài Bắc), tháng 7 năm 2002, trang 220.

 

[5] Lưu Uyển Lợi viết, “Truyện ký về Không Hành Mẫu và thượng sư trong Phật giáo Tạng truyền”, đăng trong “Học báo trung tâm nghiên cứu Phật học”, kỳ 7, Trung tâm Nghiên cứu Phật học, Viện Văn học, Đại học quốc lập Đài Loan (Đài Bắc), tháng 7 năm 2002, trang 215.

 

[6] Thương Quyết Trác Mã viết, “Tổng thuật nghiên cứu phụ nữ Tây Tạng”, đăng trong “Nghiên cứu Tây Tạng”, kỳ 1, Viện khoa học xã hội Tây Tạng (Lhasa Tây Tạng), tháng 2 năm 2008, trang 114-115.

 

[7] Phật quả này là Phật Mật giáo, Phật Lạt Ma của Phật giáo Tạng truyền, không phải là Phật trong Phật giáo chính thống.

 

[8] Lưu Uyển Lợi viết, “Truyện ký về Không Hành Mẫu và thượng sư trong Phật giáo Tạng truyền”, đăng trong “Học báo trung tâm nghiên cứu Phật học”, kỳ 7, Trung tâm Nghiên cứu Phật học, Viện Văn học, Đại học quốc lập Đài Loan (Đài Bắc), tháng 7 năm 2002, trang 213-236.

 

[9] Lý Nam viết, “Sự sùng bái người nữ trong Đạo giáo và Mật giáo”, đăng trong “Nghiên cứu Nam Á”, kỳ 1, Tạp chí xã châu Á Thái Bình Dương đương đại (Bắc Kinh), năm 1998.

 

[10] Lý Nam viết, “Thần Phật nữ trong Mật tông Phật giáo”, đăng trong “Nghiên cứu Nam Á”, kỳ 2, Tạp chí xã châu Á Thái Bình Dương đương đại (Bắc Kinh), năm 2007.


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg