The Truth of Tibetan Buddhism

简体 | 正體 | EN | GE | FR | SP | BG | RUS | JP | VN                 Chân tướng Mật tông Tây Tạng – Trang nhất | GUEST BOOK | LOGIN | LOGOUT

Sexual scandals of Lamas and Rinpoches

über die Dalai Lamas

Before Buddhism was brought to Tibet, the Tibetans had their believes in "Bon". "Bon" is a kind of folk beliefs which gives offerings to ghosts and gods and receives their blessing. It belongs to local folk beliefs.

In the Chinese Tang Dynasty, the Tibetan King Songtsän Gampo brought “Buddhism” to the Tibetan people which became the state religion. The so-called “Buddhism” is Tantric Buddhism which spreads out during the final period of Indian Buddhism. The Tantric Buddhism is also named "left hand tantra" because of its tantric sexual practices. In order to suit Tibetan manners and customs, the tantric Buddhism was mixed with "Bon". Due to its beliefs of ghosts and sexual practices, it became more excessive.

The tantric Master Atiśa spread out the tantric sex teachings in private. Padmasambhava taught it in public, so that the Tibetan Buddhism stands not only apart from Buddhist teachings, but also from Buddhist form. Thus, the Tibetan Buddhism does not belong to Buddhism, and has to be renamed "Lamaism".

   
                  PHÁP TU Ý DÂM VÀ THỦ DÂM CỦA ĐƠN NAM, NỮ TRONG MẬT TÔNG TÂY TẠNG

 

PHÁP TU Ý DÂM VÀ THỦ DÂM CỦA ĐƠN NAM, NỮ TRONG MẬT TÔNG TÂY TẠNG

Mật tông Tây Tạng có pháp tu song thân, ngoài ra cũng còn có pháp tu đơn thân. Pháp tu đơn thân chủ yếu là nói khi trước mắt không có Minh Phi thực thể người thật để tu hành, thì có thể dùng pháp quán tưởng ý dâm và thủ dâm để đạt mục đích sinh ra khoái cảm tình dục giống như khi tu Song thân pháp với Minh Phi.

Hình: Đại sĩ Liên Hoa Sinh là người đầu tiên đưa Song thân pháp của Mật tông Ân Độ đến vùng biên địa dân trí chưa được khai hóa – Tây Tạng.

Dưới đây chúng ta hãy xem Mật tông làm thế nào để lấy ý dâm và thủ dâm để làm pháp môn trong tu hành thành Phật của mình.

Cuốn “Bí mật Ma ni Minh điểm kinh” của Mật tông (kinh này không phải do Phật Thích Ca thuyết, mà là kinh giả do ngoại đạo trà trộn vào trong Phật môn) nói rằng:

Hai tay ôm rốn, chùy rủ giữa hai mắt cá chân

Người có tham tâm nơi thân giới khá nhỏ

Đốt tay sinh khởi năm loại Không Hành Mẫu

Chùy mềm không cứng day vuốt minh điểm xuống

Như Mễ Lạc nói là xuống như dáng rùa bò

Lần lượt mạch xứ nhân biết lấy Tứ trí này

Đến chỗ gốc chùy thì nâng lên trong từng sát na

Nghi nó rơi rớt thì dùng thủy thú hầu quyền,

Giữa hai hạ môn, minh điểm tất đi qua

Như chỗ tháo nước, phải dùng sức ấn đè

Hậu môn căng ra, tứ chi co rút mạnh

Hạ khí nâng lên đến bụng, dựa vào sống lưng

Chỗ hai hạ môn, dùng sức mà nâng thu

Lưỡi đẩy thượng ngạc, mắt hướng lên nhìn ngược

Khí ở toàn thân hoàn toàn đẩy lên trên

“Hồng”, “Hạ”, “Thẩm” ba âm phải hô dài

Nguồn tâm ở chốn pháp giới hư không kia

Mật chùy minh điểm như sóng trào lên cao

Đến giữa rốn thì sinh hoan hỉ thứ nhất

Tâm nhị, hầu tam, đỉnh tứ lần lượt hoan hỉ theo

Phải chăng là từ dưới lên trên hỉ Tứ trí

Lúc đó an trú vào Không Tính không được rời

Mới có thể thành tựu Tứ hỉ nghịch hành

Sau đó tâm khế hợp với hư không kia

Xem thể tính quảng đại như hư không kia

Dùng quyền pháp ở trên ra sức mà thực hành

Minh điểm chớ rơi rớt, như lời thề bảo vệ.

Chú giải kinh văn như sau:

Ngồi “Tiên nhân tòa”, tưởng tượng có một mỹ nữ đang ôm lấy mình, hoàn toàn thực hành trong sự tưởng tượng hư giả. Dùng năm ngón tay đại diện cho “hoa sen – âm đạo”, nắm chụp lấy “chùy – dương vật”. “Chùy” đút vào “hoa sen”, làm cho sinh ra đại lạc, thân phát nhiệt. Chùy sinh ra tân dịch (nước tinh), nhưng không được để cho nó rơi rớt (xuất tinh). Quán tưởng làm tắc đầu chùy. Như vậy là ý đang ở đại lạc, từ từ thủ dâm. Nếu như lạc xúc sinh khởi muốn tiết ra (xuất tinh), thì lập tức dùng “đề pháp – phép nâng”, ví dụ như pháp “co rút tứ chi”, “nâng thót hậu môn”, “mắt nhìn ngược lên trên”, “nâng khí trụ”, “áp hầu kết”, “bụng thót dán sát lưng”, “nắm chặt”. Sau đó, phát âm “chữ Hồng dài, Hồng ngắn” để xuất khí. Thực hành “pháp nâng” Kim Cương quyền. Như thế là “Lạc Không hỗ vận”. Như vậy, lại không hành nữa, lấy hai ngón tay ấn đề vào giữa chỗ đại tiện và tiểu tiện, tâm trụ vào chữ “Hàng” trên đỉnh đầu, đừng để cho nó xuất ra. Nếu như áp dụng pháp thủ dâm đơn tu này, tinh tấn mà thực hành, có lạc khoái mà không xuất tinh, thì sẽ được đại kiên cố (bền bỉ). Không những được đại lạc khoái, mà còn thành tựu Du Già Sĩ đại lực, tăng trưởng kiên cố, có thể tách bạch tịnh và trọc, minh điểm cũng sẽ hạ thấp. Cuối cùng tu thành “Tứ hỉ thăng ngược”. (Trích dẫn từ “Bí mật đại lạc đơn tu”)

Trong cuốn “Hợi Mẫu thậm thâm dẫn đạo” của mình, Liên Hoa Sinh đã khai thị như sau:

“Người tự làm Đại lạc luân (Lạt Ma Mật tông nếu như không có Minh Phi người thật cùng tu, thì tu Đại lạc luân tự thân – tức thủ dâm): Bậc du già sĩ (yoga) có đủ lực, vì để tăng trưởng trí tuệ Vô lậu, cần tu khí mạch minh điểm, sau khi quán đỉnh như pháp, thực hành chuyết hỏa, thì ngồi lên đệm an lạc ở một nơi vắng vẻ, tùy theo dục lạc (dâm ý) mà nghĩ đến một vị Phật mẫu (tức là quán tưởng, tưởng tượng ra một vị Minh Phi). Đó là để tương hợp với tâm, tu pháp trí tuệ mẫu. Nếu như nó chân thực rồi (nếu như Minh Phi mà mình tưởng tượng ra đó đã thật sự xuất hiện trước mắt rồi), nghe lời cô ta nói, làm các động tác như ngắm nhìn dung mạo, bóp vú, hướng đến hư không mà hành (tức là khi tưởng tượng ra Minh Phi hiện lên rồi thì còn phải nghe được tiếng cô ta nói, làm các động tác ngắm nhìn hình dáng, ấn bóp ngực cô ta…, tất cả đều thực hiện kiểu quờ quạng vào một cô gái vô hình trong hư không ngay trước mắt mình, nhưng tâm thì tưởng tượng ra như thật). Cứ thế đạt đến Bất định pháp (tức là thực hành như trên, không nhất định áp dụng mãi một cách làm cố định nào), khiến cho sinh an lạc (làm cho mình sinh ra cảm xúc dâm lạc). Thân sinh nhiệt, ra mồ hôi, chùy (dương vật) bắt đầu tiết dãi bò (nước dâm rỉ ra quy đầu), lúc này nên quán sát rằng cái thể tính đó vốn dĩ là không. Đầu, thân bắt đầu run rẩy, thế là trong sát na nảy ra cái mạn của Phật đầu ngựa (mã đầu Phật mạn), quán sát chùy (dương vật) của mình thành 5 bộ chùy, chữ Hồng đầu hướng xuống dưới, bịt vào đầu chùy, lấy tay phải làm Hợi Mẫu mà hành (tức là lấy tay phải làm thành âm hộ của Minh Phi Hợi Mẫu, dùng cách thủ dâm vuốt lên xuống mà sinh ra dâm lạc), hiển hiện ngũ luân trên đỉnh đầu Tự tính, cứ tu như Mật tu ở trước. Tuy có gặp phải phen mệnh nan, minh điểm đừng để tiết lậu (cho dù gặp phải tình huống nguy nan đến tính mạng, cũng không được để cho tinh dịch xuất ra).

Cái ý lạc như thế, cần sinh khởi liên tục, từ từ thủ dâm. Cái Lạc nếu đã sinh khởi rồi (khoái cảm xuất hiện), thì dùng thượng khí án đè xuống chỗ đó, trung khí làm cho nổi trống bụng, mắt nhìn lên thể minh không, lắc thân rung mình; Khi cái Lạc (khoái cảm tình dục) giảm dần, thì lại thủ dâm. Nếu không chịu nổi cơn lạc khoái đó, (đê mê) tựa như lúc hôn mê, thì thân phải bất động, trung khí trướng đẩy ra ngoài, thượng khí đè ấn, bối khí nâng lên (khí đẩy ra lưng, như con mèo cong lưng, thót hậu môn, đưa khi từ dương vật hướng ra sau lưng, nâng về hướng Đốc mạch), lại xuất khí ra bằng âm Hồng hô dài, hô ngắn, bụng hóp dán sát lưng (co rút nâng sát ra đằng lưng). Cứ thế thực hành không gián đoạn 3 lần (cứ làm như trên liên tục 3 lần tạo ra cực khoái tình dục)”. (Theo “Khúc quăng trai toàn tập (3)”, Trần Kiện Dân viết, Từ Cần Đình biên soạn, Hội Phật giáo Phổ Hiền Vương Như Lai xuất bản ngày 10.7.1991, trang 529~539)

Hình: Tác giả của “Khúc quăng trai toàn tập” là thượng sư Trần Kiện Dân, một trong 10 nhà đại tu hành của Trung Quốc. Từ khi tác phẩm của ông ta được lưu hành, chúng ta mới có thể biết được đại bí mật không cho người ngoài biết trong pháp tu song thân của Lạt Ma giáo. Kỳ thực, nội dung của nó giống như Ái Kinh (Kamasutra) của Ấn Độ và thuật phòng trung của bàng môn tả đạo bên Đạo giáo, thuần túy chỉ là những cuốn dâm thư nâng cao lạc khoái trong khuê phòng nam nữ mà thôi, đừng vọng tưởng cho rằng có thể qua đó mà tu thành Phật. Trở thành dâm ma thì còn có thể được!

Như trên đã dẫn lời khai thị của “đại sư” Liên Hoa Sinh – giáo chủ Mật tông trong cuốn “Hợi Mẫu thậm thâm dẫn đạo”, qua đó có thể thấy một đời của Liên Hoa Sinh đều là hành dâm bất đoạn, cho đến việc dạy người cũng đều dùng pháp ý dâm, thủ dâm để tinh tấn tu hành suốt đời.

Nữ hành giả Mật tông cũng có thể tự thực hành ý dâm, thủ dâm. Trong khẩu quyết “Kim Cương dẫn thủy giáo thụ” mà thượng sư Liên Hoa Sinh truyền thụ cho “Không Hành Mẫu” Di Hỷ Thác Gia có nói nữ hành giả trong Mật tông (còn gọi là Minh Phi, Kim Cương Không Hành Mẫu, Độ Mẫu, Phật Mẫu, Liên Hoa Sự Nghiệp Nữ…) việc tu pháp tức thân thành Phật vô thượng du già (vô thượng yoga) có bốn loại: Một là quán tưởng (tưởng tượng) mà tu; Hai là tự tu trên tay; Ba là dùng vật mềm tự tu (thủ dâm trong âm đạo); Bốn là hòa hợp (làm tình) với Dũng Sĩ (tức Phật Phụ của Mật tông).

Về pháp tu dâm ý quán tưởng mà tu của nữ hành giả Mật tông, thượng sư Liên Hoa Sinh có nói trong “Nữ ấn thụ trì mật tu” nói thế này:

“Mới phát khởi Bồ Đề tâm, khởi bạch từ chỗ ba căn bản, (sau đó quán tưởng) mình trong một sát na biến thành Hợi Mẫu, (đồng thời quán tưởng) trong bốn cánh hoa sen của mình (tức là nói bốn môi lớn nhỏ của âm hộ) xuất hiện chữ A trang nghiêm, giữa tâm thì có chữ☆(một ký tự chữ Phạn, không chép ra đây được) thành Phật Bộ Không Hành; trên đỉnh đầu có chữ ☆(chữ Phạn) thành Kim Cương Không Hành; giữa hầu có chữ ☆(chữ Phạn) thành Bảo Sinh Không Hành; giữa rốn có chữ ☆(chữ Phạn); chỗ Mật xứ (bộ phận sinh dục) có chữ ☆(chữ Phạn) thành Sự Nghiệp Không Hành, thân tướng thủ ấn vân vân, khi mật tu Đại lạc sẽ biết. Ở phía trước mặt cô ta, tưởng tượng ra một Phật Phụ Mã Đầu Kim Cương (nam hành giả song tu tưởng tượng là Kim Cương đầu ngựa) khiến cho mình sinh tâm tham (sinh ra dục vọng). Trong tâm có chữ Xá biến thành Phật Dũng Sĩ, trên đỉnh luân có chữ ☆(chữ Phạn), hầu luân có chữ ☆(chữ Phạn), tề (rốn) luân có chữ ☆(chữ Phạn), mật luân có chữ ☆(chữ Phạn), mỗi chỗ đều thành bốn bộ Dũng Sĩ, còn lại như mật tu Đại Lạc (những gì còn lại chưa nói thì tu như đã nói trong mật pháp Đại Lạc Kim Cương). Từ chùy Kim Cương (hạ thể, tức dương vật) của Dũng Phụ được quán tưởng (tưởng tượng) ra đó, quán tưởng thành 5 bộ (tưởng tượng thêm ra 5 bộ chùy Kim Cương), bên trong có vật cúng dường Không Hành Mẫu (bên trong có tinh dịch, gọi là Bạch Bồ Đề, dùng để cúng dường cho Không Hành Mẫu), làm đầy tất cả các lỗ chân lông của Phật Phụ Phật Mẫu (là Bản Tôn đã được quán tưởng ra bên trong hạ thể), sinh khởi Dũng Sĩ Không Hành tạp loại, (xuất hiện) như vừng mở mắt (vừng nổ hạt).

Về pháp tu quyến thuộc tu ngoài thân mình và người, thì phía đông có Kim Cương Không Hành Dũng Sĩ như thường thấy, cho đến phía (nam tây) bắc cũng có. Ở trên bốn cánh hoa sen (4 môi âm hộ) cũng tu có bốn Không Hành Mẫu, thế là (quán tưởng) nam nữ giao hợp, có sai lầm thế gian cũng coi như không nhiễm phạm, tiến vào như con trùng nhu động (quán tưởng cái chùy kim cương – dương vật của Dũng Phụ quán tưởng ra như con trùng nhu động chui rúc vào, từ đó mà dẫn sinh ra khoái lạc tình dục). Lại lấy các Không Hành Mẫu sinh ra từ các lỗ chân lông từ trên đỉnh đầu cho đến trong thân làm trợ duyên, (quán tưởng) các Không Hành Dũng Sĩ đó cũng đều sinh khởi đại lạc tình dục, ngồi kiết già hoa sen, gót chân đẩy chống vào điểm giữa cơ quan tiểu, đại tiện (của mình), tay quyền Kim cương đặt ở rốn, quán tưởng trong hoa sen (âm đạo hạ thể của mình) có chữ Xá màu đỏ hai vòng, chữ ☆(chữ Phạn) làm chữ Mệnh của Không Hành, nhập vào trong chùy (kim cương của Phật Phụ do quán tưởng ra), cái vật cúng dường (trong chùy hạ thể của Phật Phụ, Mật tông gọi là Bạch Bồ Đề, tức tinh dịch) trút xuống như mưa (tựa như) băng phiến. Lấy chữ Xá này (lấy Bạch Bồ Đề trong hạ thể Phật Phụ) móc ra để cúng dường lên thượng sư trên đỉnh đầu và Không Hành (Dũng Phụ, Dũng Mẫu) năm nơi (ở ngũ luân đỉnh, hầu, tâm, rốn, mật trong thân). Cuối cùng thì rung lắc thân mình như con dê, như ngựa lăn mặt đất, an trú ở bản thể. Trung khí chướng ra, khiến cho nó được kiên cố bền chắc. Khi thân Sơ Bản Tôn như ảnh tương giáng, như khẩu quyết con rùa (chi tiết xem trong các tiết trước), chú tâm vào đỉnh luân. Các khí lần lượt giãn chùng, dùng pháp đối trị mãnh lợi mà thực hành. Đó là ba yếu quyết. Lúc nâng lên thì dùng pháp Hổ âu (hổ nôn), lòng bàn chân tay áp đất, trong miệng niệm ☆(chữ Phạn) 9 lần; ở bên trái, phải, giữa, ba lần ba mà hành bằng pháp Hồ xú (cáo thối), nâng từ bên phải, bên phải hô 3 lần, bên trái và ở giữa cũng vậy. Thân khi nâng bên trái, giữa, thì quyền ấn ngực (vú), thân hơi nghiêng về bên trái phải trước, như đầu có con rắn tạo thế. Người quán tưởng, móc chữ Hồng từ trong chùy người nam ra, hồng bạch minh điểm men theo trung mạch người nữ, cúng dường thượng sư Không Hành như trên nói. Về pháp an trú Minh điểm, ngồi kiết già, hai tay đặt lên đầu gối, trung khí trướng bụng ra, mắt nhìn hư không, thân lắc như dê rùng mình. Hành hai lần, có thể trừ bỏ được tất cả chướng ngại. Cuối cùng, trí khí an trú bản tịnh, hồi hướng phát nguyện. Lĩnh nạp tứ hỷ, tu không ngừng nghỉ” (Theo “Khúc quăng trai toàn tập (3)”, Trần Kiện Dân viết, Từ Cần Đình biên soạn, Hội Phật giáo Phổ Hiền Vương Như Lai xuất bản ngày 10.7.1991, trang 569~570)

Như trên đã nói, nữ hành giả Mật tông cần phải cùng nam hành giả để dẫn sinh Tứ hỷ (bốn loại dâm lạc theo thứ bậc), đồng thời phải tu “Lạc Không song vận”, khiến cho mình thường trú lâu trong cảm nhận bốn loại cực khoái tình dục (Tứ hỷ), rồi quan sát “Lạc Không bất nhị”. Cứ thế thường trú trong cảm xúc dâm lạc như vậy, khiến cho khoái lạc tình dục liên tục xuất hiện mà hưởng thụ nó, đồng thời phải có cái “kiến địa” (nhận thức) rằng “cái dâm lạc này bản tính thanh tịnh, dâm lạc không có hình tướng, không có màu sắc cho nên là Không tính” tồn tại song song, như thế mới gọi là “Lạc Không song vận” (vừa hưởng thụ khoái lạc tình dục, vừa quán tưởng coi như nó là Không tính trong Phật pháp).

Pháp này phải chăm chỉ tu hành, không được lười biếng, cho đến khi có thể trụ trong dâm lạc như vậy trong tất cả các thời (mọi lúc), thì tức là đã thành tựu Đại Lạc ở Phật địa rồi, là đã thành tựu “Báo thân” rồi. Báo thân Phật trong Mật tông đều là thường trụ trong “Đại Lạc” như thế đó. Phàm tất cả những thứ này đều thuộc về pháp Ý dâm, không khác gì so với vọng tưởng sinh ra ý dâm của kẻ phàm phu cả, thì có thể thể gọi là chính tu hành trong Phật pháp được đây?

Về pháp thủ dâm tự tu trên tay của nữ hành giả Mật tông, Liên Hoa sinh nói: “Về pháp tự tu trên tay, pháp tu này giống như trên (giống như tu quán tưởng)”. (Theo “Khúc quăng trai toàn tập (3)”, Trần Kiện Dân viết, Từ Cần Đình biên soạn, Hội Phật giáo Phổ Hiền Vương Như Lai xuất bản ngày 10.7.1991, trang 570)

Nữ hành giả Mật tông nếu khi quán tưởng, không sinh khởi được dâm lạc (khoái lạc tình dục), hoặc xuất hiện dâm lạc rồi mà không thể đạt đến cực khoái tình dục, thì có thể tu thêm pháp thủ dâm, khiến sinh ra cực khoái mà thường trụ vào đó. Pháp quán hành trong đó, giống như pháp tu nói ở trên. Chỉ là phải gia hành (tăng cường) bằng cách thủ dâm, cho nên mới gọi là “tự tu trên tay”.

Ngoài ra, nếu như pháp thủ dâm trên cũng vẫn không sinh ra được khoái cảm tình dục, thì còn phải phối hợp với vật mềm để tự tu, tức là nói nếu như pháp thủ dâm vẫn không đạt được dâm lạc đầy đủ, thì lại có thể dùng pháp gia hành, khiến cho dâm lạc sinh ra, hoặc làm cho dâm lạc nhanh chóng đạt đến cực khoái tình dục. Liên Hoa Sinh khai thị như sau:

“Về việc dùng vật mềm, tức là dùng ống trúc (loại nhỏ) dài 5 tấc, bên trong nhét dương vật dê (chú thích gốc: loại chưa cắt bỏ tinh hoàn), minh điểm mao lư (tinh dịch con lừa), minh điểm của người nam vừa tâm ý (tinh dịch của người nam mà mình ngưỡng mộ trong lòng), (sau khi đút vào ống trúc), thì lấy len cuốn bên ngoài, lấy nắp nắp lại. Ngoài ra, lại lấy lụa hoặc mảnh áo bọc lại, to nhỏ cỡ như cái chùy (kích cỡ to nhỏ như dương vật người nam khi cương cứng), lại dùng sáp vàng bôi lên, khiến nó mềm ra, không làm tổn hại đến hoa sen (bôi sáp lên để nó mềm ra, không gây tổn hại đến âm đạo của mình khi thực hành). Ngoài ra, lại còn bôi vật bí mật lên (chú thích gốc: Thày nói không biết. Trần Kiện Dân bình rằng: có lẽ là vật bôi trong pháp tu của người nam). Rồi phát đại Bồ Đề tâm, quán tưởng ra một Dũng Sĩ vừa ý (tưởng tượng ra một người nam mà mình cảm thấy yêu thích), thực hiện các loại tham hành (khi quán tưởng, tay cầm cái dương vật giả đó mà làm các động tác khiến cho mình cảm thấy khoái lạc), (sau khi) hoa sen (âm hộ) nhuận nước (rỉ dâm thủy), thì gia trì mật xứ của mình và người ta (gia trì vào hạ thể, tức cơ quan sinh dục của mình và người nam được quán tưởng ra), khiến cho Phật Phụ, Phật Mẫu được bình đẳng trú (làm cho Phật Phụ và Phật Mẫu trong hạ thể mà quán tưởng ra đó quan hệ tình dục với nhau, cùng với mình đồng thời an trú trong cực khoái tình dục). Thân hơi ngửa ra sau, tay trái ôm lấy phần cẳng chân trái, tay phải cầm vật mềm (dương vật giả tự làm). Trước hết là phải phơi nắng nó cho nóng mềm (để cho sáp thấm vào đạo cụ, không gây tổn thương cho âm đạo mình), thực hiện các loại tham tướng trên dưới trái phải trong liên hoa (làm các động tác chọc rút trái phải trên dưới trong âm đạo của mình khiến cho sinh ra khoái lạc tình dục): (vì dâm lạc mà) sinh ra suyễn (thở hổn hển), thân thể run lên…, thì dùng chùy đút sâu đi chậm, tự mình nảy bật từ dưới lên trên. Khi an trú trong Đại Lạc (khi cơn cực khoái tình dục đến), các cử động thân dưới đều dừng lại, chú tâm nhìn lên thượng sư Kim Cương Không Hành ở trên đỉnh đầu, mắt đảo lật (mắt nhìn lộn hướng vào trong). Khi cơn đại lạc tán giảm đi thì lại thực hành, đại lạc lên cao thì lại buông lỏng thư giãn. Rồi cúng dường năm Không Hành trong mạch (nếu như khoái lạc tình dục tán thất suy giảm không mạnh mẽ nữa thì lại tiếp tục dâm hành, nếu khoái lạc tình dục dâng lên cao thì phải hòa hoãn lại, từ từ mà hành. Trong cảnh giới như thế, tiếp tục quán tưởng đem khoái lạc tình dục trong thân mình ra cúng dường các Dũng Sĩ và Phật Mẫu Không Hành trong ngũ luân ở trong trung mạch của mình). (Theo “Khúc quăng trai toàn tập (3)”, Trần Kiện Dân viết, Từ Cần Đình biên soạn, Hội Phật giáo Phổ Hiền Vương Như Lai xuất bản ngày 10.7.1991, trang 570-572)

Đó là những nội dung mà thượng sư Liên Hoa Sinh nói trong “Mật tục”, nữ hành giả Mật tông khi tự thủ dâm mà không đạt được khoái lạc tình dục, thì phải hỗ trợ bằng đạo cụ “dương vật giả” để có thể sản sinh ra dâm lạc Tứ hỷ. Đó là pháp “tự tu tức thân thành Phật” mà nữ hành giả Mật tông thực hành mà không cần dựa vào nam hành giả (người thật).

Pháp thế tục có nói rằng: “vạn ác dâm làm đầu”. Dâm dục là nghiệp ác cực sâu nặng của chúng sinh nơi Dục giới, thậm chí đến mức lấy đó làm bản năng và hưởng lạc của sinh mệnh, suốt đời tham luyến không rời. Người bình thường nếu chỉ cần có chút lơ là, là có thể bị rơi vào vòng xoáy đó, ngộ phạm tà dâm mà thân bại danh liệt. Cho nên, trong pháp thế gian vẫn thường hay khuyên người ta nên đoan trang chính tâm, cẩn thận trong lời nói và việc làm, để tránh khi không cầm được mà chịu quả báo khổ đau oan uổng. Trong Phật pháp cũng biết rõ “dục căn” khó đoạn (muốn đoạn phải có định lực của Sơ thiền, hoặc tu chứng của bậc Tam quả), vì thế mới đặt ra giới luật, để cho đệ tử Phật lấy giới nhiếp tâm, không phạm thân khẩu tà hành mà liên lụy đến mình và người, hoặc gây chướng ngại đến tiến tu trong đạo Giải thoát, Bồ Tát hành, đại bi tâm…Nếu như thế tục pháp và Phật pháp đều thống nhất tuyên thuyết về sự hưởng lạc và sai lầm của “dục lạc”, từ đó mà khuyên răn mỗi người đều nên chủ động tiết chế, tránh xa, rời bỏ, mà e còn không làm nổi; ấy thế mà Mật tông lại biết rõ vẫn làm, vọng tưởng “lấy dục ngăn dục”, dùng các nghi quỹ phức tạp, lý luận hoang đường, đem “song thân pháp” ra làm cực lạc hóa, thần thánh hóa, tôn sùng trở thành vô thượng yoga, tức thân thành Phật, còn nói cái thứ “tà dâm” làm ngược đó thành có lý, nói “loạn luân” không có tội. Rất nhiều nam nữ vô trí tuệ, hoặc vì tham dâm dục mà bị chúng dụ dỗ, hoặc tham mê quả vị mà bị rơi vào cạm bẫy của họ, lăn vào tà hành của ngoại đạo, để sau này hối hận cũng không kịp. Thật đúng là đáng thương.

Phật Thế Tôn nói rằng: “Các vị Như Lai không sinh ra từ dục”. Nếu như dựa vào Phật giáo chính thống mà kiểm tra, thì có thể thấy “song thân pháp” từ gốc rễ không những đã trái ngược với luân lý thế gian, mà còn trái ngược cả với giới luật lớn nhỏ, thậm chí trở thành cái cớ của các hành giả tham dâm. Chính vì thế mà tổ sư Mật tông lại nhập nhèm lẫn lộn, bày đặt ra cái gọi là “Giới Tam muội da”, một mặt vừa quy phạm, đặt ra các điều kiện tu tập “song thân pháp” cho hành giả, mặt khác cũng nêu ra các lý do không phạm giới cho song thân pháp. Thậm chí ngay cả khi không có Minh Phi để dùng, lúc đơn tu (tu một mình) có thể dùng ý dâm, thủ dâm để thay thế cho song thân pháp. Thế nhưng, phương hướng và mục tiêu của họ đều đã sai rồi, thì trong quá trình thực hành, dù có đổi trắng thay đen thế nào, thì cũng vẫn là dẫn dắt sai lầm, thậm chí là dã tràng xe cát, còn tự chịu hại nữa. Nếu như đem “Ngũ giới” mà tín đồ Phật giáo đều rất quen thuộc ra để đối chiếu, thì có thể thấy rõ Mật tông Tây tạng bất luận là đơn thân pháp hay song thân pháp, cũng đều vi phạm nghiêm trọng tội tà dâm, cũng chính là hành dâm “phi nhân, phi thời, phi xứ”. Điều này trong Hiển giáo có thể nói là hành vi súc vật, mang tội địa ngục. Thế nhưng, Tạng Mật vì luôn muốn bảo vệ, duy trì thứ dâm hành này, nên đã bày đặt ra các ngôn từ bóng bẩy làm trang sức che đậy. Việc hành dâm không chọn “giờ, địa điểm, người” mà không có kỵ húy gì cả như vậy, ở trong Tạng Mật lại được xưng tụng là tu hành “tinh tấn”, còn có “đại công đức”, có thể nhanh chóng thành Phật. Thật không hiểu đó là liều lĩnh cuồng vọng hay là đại quyền biến thông nữa.

Ở đây, xin hỏi trước các vị thiện nữ học Phật, cái sự thực nói trên có phải là thứ mà các vị nguyện làm không? Nếu như đem hiến cả thân thể mình mà không có công đức, công lao gì, thậm chí còn nối giáo cho giặc, thì phải làm sao? Nữ giới trên xã hội trong thế giới văn minh này đều được đối xử bình đẳng, cũng còn có sự tôn nghiêm độc lập, lẽ nào sau khi bước vào cửa Mật giáo, lại trở thành vật hy sinh cho sự dâm dục của nam giới? Học Phật mà là như vậy ư? Lại nữa, này các vị thiện nam, các vị có thực sự tin rằng “dâm dục” là đạo nhanh chóng thành Phật không? Các vị có muốn mạo hiểm nếm thử thứ giáo môn cho hành dâm với mẹ, chị, vợ, con gái người ta, đồng thời cũng phải dâng hiến mẹ, chị, vợ, con gái của các vị cho người ta hành dâm không? Các vị có gánh chịu được hậu quả của nó không? Không chỉ đời này mất đi vợ con lại tổn phúc, mà đời sau còn có thể trở thành quyến thuộc của ma nữa đó!

http://www.lamatruth.com:8080/articles/?type=detail&id=177

 

Từ khóa: Mật tông Tây Tạng, Song thân pháp, Minh Phi, thủ dâm, Lạt Ma, Hợi Mẫu thậm thâm dẫn đạo, Liên Hoa Sinh, Bồ Đề tâm, Không Hành Mẫu, Mật tục

 

Trước đó: 10 NĂM THI HÀNH “BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CHUYỂN THẾ CỦA PHẬT SỐNG”

Tiếp theo: THỐNG KÊ TUỔI THỌ CỦA CÁC ĐỜI ĐẠT LAI LẠT MA

trang chủ

lượt xem trang: 11511


Die Dalai Lamas

»Die Dalai Lamas werden von ihren Anhängern als fortgeschrittene Mahayana Bodhisattvas angesehen, mitfühlende Wesen, die sozusagen ihren eigenen Eintritt in das Nirvana zurückgestellt haben, um der leidenden Menschheit zu helfen. Sie sind demnach auf einem guten Wege zur Buddhaschaft, sie entwickeln Perfektion in ihrer Weisheit und ihrem Mitgefühl zum Wohle aller Wesen. Dies rechtertigt, in Form einer Doktrin, die soziopolitische Mitwirkung der Dalai Lamas, als Ausdruck des mitfühlenden Wunsches eines Bodhisattvas, anderen zu helfen.«

?Hier sollten wir zwei Dinge feststellen, die der Dalai Lama nicht ist: Erstens, er ist nicht in einem einfachen Sinne ein ?Gott-König?. Er mag eine Art König sein, aber er ist kein Gott für den Buddhismus. Zweitens, ist der Dalai Lama nicht das ?Oberhaupt des Tibetischen Buddhismus? als Ganzes. Es gibt zahlreiche Traditionen im Buddhismus. Manche haben ein Oberhaupt benannt, andere nicht. Auch innerhalb Tibets gibt es mehrere Traditionen. Das Oberhaupt der Geluk Tradition ist der Abt des Ganden Klosters, als Nachfolger von Tsong kha pa, dem Begründer der Geluk Tradition im vierzehnten/fünfzehnten Jahrhundert.«

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
Clarke, P. B., Encyclopedia of New Religious Movements
(New York: Routledge, 2006), S. 136.

Regierungsverantwortung
der Dalai Lamas

?Nur wenige der 14 Dalai Lamas regierten Tibet und wenn, dann meist nur für einige wenige Jahre.?

(Brauen 2005:6)

»In der Realität dürften insgesamt kaum mehr als fünfundvierzig Jahre der uneingeschränkten Regierungsgewalt der Dalai Lamas zusammenkommen. Die Dalai Lamas sechs und neun bis zwölf regierten gar nicht, die letzten vier, weil keiner von ihnen das regierungsfähige Alter erreichte. Der siebte Dalai Lama regierte uneingeschränkt nur drei Jahre und der achte überhaupt nur widerwillig und auch das phasenweise nicht allein. Lediglich der fünfte und der dreizehnte Dalai Lama können eine nennenswerte Regieruagsbeteiligung oder Alleinregierung vorweisen. Zwischen 1750 und 1950 gab es nur achtunddreißig Jahre, in denen kein Regent regierte!«

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 182,
Universität Hamburg

Der Fünfte Dalai Lama,
Ngawang Lobsang Gyatso

Der Fünfte Dalai Lama, Ngawang Lobsang Gyatso

?Der fünfte Dalai Lama, der in der tibetischen Geschichte einfach ?Der Gro?e Fünfte? genannt wird, ist bekannt als der Führer, dem es 1642 gelang, Tibet nach einem grausamen Bürgerkrieg zu vereinigen. Die ?ra des fünften Dalai Lama (in etwa von seiner Einsetzung als Herrscher von Tibet bis zum Beginn des 18. Jahrhunderts, als seiner Regierung die Kontrolle über das Land zu entgleiten begann) gilt als pr?gender Zeitabschnitt bei der Herausbildung einer nationalen tibetischen Identit?t - eine Identit?t, die sich im Wesentlichen auf den Dalai Lama, den Potala-Palast der Dalai Lamas und die heiligen Tempel von Lhasa stützt. In dieser Zeit wandelte sich der Dalai Lama von einer Reinkarnation unter vielen, wie sie mit den verschiedenen buddhistischen Schulen assoziiert waren, zum wichtigsten Beschützer seines Landes. So bemerkte 1646 ein Schriftsteller, dass dank der guten Werke des fünften Dalai Lama ganz Tibet jetzt ?unter dem wohlwollenden Schutz eines wei?en Sonnenschirms zentriert? sei; und 1698 konstatierte ein anderer Schriftsteller, die Regierung des Dalai Lama diene dem Wohl Tibets ganz so wie ein Bodhisattva - der heilige Held des Mahayana Buddhismus - dem Wohl der gesamten Menschheit diene.?

Kurtis R. Schaeffer, »Der Fünfte Dalai Lama Ngawang Lobsang Gyatso«, in
DIE DALAI LAMAS: Tibets Reinkarnation des Bodhisattva Avalokite?vara,
ARNOLDSCHE Art Publishers,
Martin Brauen (Hrsg.), 2005, S. 65

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft I

?Gem?? der meisten Quellen war der [5.] Dalai Lama nach den Ma?st?ben seiner Zeit ein recht toleranter und gütiger Herrscher.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 136)

?Rückblickend erscheint Lobsang Gyatso, der ?Gro?e Fünfte?, dem Betrachter als überragende, allerdings auch als widersprüchliche Gestalt.?

Karl-Heinz Golzio / Pietro Bandini,
»Die vierzehn Wiedergeburten des Dalai Lama«,
O.W. Barth Verlag, 1997, S. 118

»Einmal an der Macht, zeigte er den anderen Schulen gegenüber beträchtliche Großzügigkeit. […] Ngawang Lobsang Gyatso wird von den Tibetern der ›Große Fünfte‹ genannt, und ohne jeden Zweifel war er ein ungewöhnlich kluger, willensstarker und doch gleichzeitig großmütiger Herrscher.«

Per Kvaerne, »Aufstieg und Untergang einer klösterlichen Tradition«, in:
Berchert, Heinz; Gombrich, Richard (Hrsg.):
»Der Buddhismus. Geschichte und Gegenwart«,
München 2000, S. 320

Der Fünfte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft II

?Viele Tibeter gedenken insbesondere des V. Dalai Lama bis heute mit tiefer Ehrfurcht, die nicht allein religi?s, sondern mehr noch patriotisch begründet ist: Durch gro?es diplomatisches Geschick, allerdings auch durch nicht immer skrupul?sen Einsatz machtpolitischer und selbst milit?rischer Mittel gelang es Ngawang Lobzang Gyatso, dem ?Gro?en Fünften?, Tibet nach Jahrhunderten des Niedergangs wieder zu einen und in den Rang einer bedeutenden Regionalmacht zurückzuführen. Als erster Dalai Lama wurde er auch zum weltlichen Herrscher Tibets proklamiert. Unter seiner ?gide errang der Gelugpa-Orden endgültig die Vorherrschaft über die rivalisierenden lamaistischen Schulen, die teilweise durch blutigen Bürgerkrieg und inquisitorische Verfolgung unterworfen oder au?er Landes getrieben wurden.

Jedoch kehrte der Dalai Lama in seiner zweiten Lebenshälfte, nach Festigung seiner Macht und des tibetischen Staates, zu einer Politik der Mäßigung und Toleranz zurück, die seinem Charakter eher entsprach als die drastischen Maßnahmen, durch die er zur Herrschaft gelangte. Denn Ngawang Lobzang Gyatso war nicht nur ein Machtpolitiker und überragender Staatsmann, sondern ebenso ein spiritueller Meister mit ausgeprägter Neigung zu tantrischer Magie und lebhaftem Interesse auch an den Lehren andere lamaistischer Orden. Zeitlebens empfing er, wie die meisten seiner Vorgänger, gebieterische Gesichte, die er gegen Ende seines Lebens in seinen ›Geheimen Visionen‹ niederlegte.«

(Golzio, Bandini 1997: 95)

Der Dreizehnte Dalai Lama,
Thubten Gyatso

Der Dreizehnte Dalai Lama, Thubten Gyatso

?Ein anderer, besonders wichtiger Dalai Lama war der Dreizehnte (1876-1933). Als starker Herrscher versuchte er, im Allgemeinen ohne Erfolg, Tibet zu modernisieren. ?Der gro?e Dreizehnte? nutzte den Vorteil des schwindenden Einflusses China im 1911 beginnenden Kollaps dessen Monarchie, um faktisch der vollst?ndigen nationalen Unabh?ngigkeit Tibets von China Geltung zu verschaffen. Ein Fakt, den die Tibeter von jeher als Tatsache erachtet haben.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

?Manche m?gen sich vielleicht fragen, wie die Herrschaft des Dalai Lama im Vergleich mit europ?ischen oder amerikanischen Regierungschefs einzusch?tzen ist. Doch ein solcher Vergleich w?re nicht gerecht, es sei denn, man geht mehrere hundert Jahre in der europ?ischen Geschichte zurück, als Europa sich in demselben Zustand feudaler Herrschaft befand, wie es in Tibet heutzutage der Fall ist. Ganz sicher w?ren die Tibeter nicht glücklich, wenn sie auf dieselbe Art regiert würden wie die Menschen in England; und man kann wahrscheinlich zu Recht behaupten, dass sie im Gro?en und Ganzen glücklicher sind als die V?lker Europas oder Amerikas unter ihren Regierungen. Mit der Zeit werden gro?e Ver?nderungen kommen; aber wenn sie nicht langsam vonstatten gehen und die Menschen nicht bereit sind, sich anzupassen, dann werden sie gro?e Unzufriedenheit verursachen. Unterdessen l?uft die allgemeine Verwaltung Tibets in geordneteren Bahnen als die Verwaltung Chinas; der tibetische Lebensstandard ist h?her als der chinesische oder indische; und der Status der Frauen ist in Tibet besser als in beiden genannten L?ndern.?

Sir Charles Bell, »Der Große Dreizehnte:
Das unbekannte Leben des XIII. Dalai Lama von Tibet«,
Bastei Lübbe, 2005, S. 546

Der Dreizehnte Dalai Lama:
Beurteilungen seiner Herrschaft

?War der Dalai Lama im Gro?en und Ganzen ein guter Herrscher? Dies k?nnen wir mit Sicherheit bejahen, auf der geistlichen ebenso wie auf der weltlichen Seite. Was erstere betrifft, so hatte er die komplizierte Struktur des tibetischen Buddhismus schon als kleiner Junge mit ungeheurem Eifer studiert und eine au?ergew?hnliche Gelehrsamkeit erreicht. Er verlangte eine strengere Befolgung der m?nchischen Regeln, veranlasste die M?nche, ihren Studien weiter nachzugehen, bek?mpfte die Gier, Faulheit und Korruption unter ihnen und verminderte ihren Einfluss auf die Politik. So weit wie m?glich kümmerte er sich um die zahllosen religi?sen Bauwerke. In summa ist ganz sicher festzuhalten, dass er die Spiritualit?t des tibetischen Buddhismus vergr??ert hat.

Auf der weltlichen Seite stärkte er Recht und Gesetz, trat in engere Verbindung mit dem Volk, führte humanere Grundsätze in Verwaltung und Justiz ein und, wie oben bereits gesagt, verringerte die klösterliche Vorherrschaft in weltlichen Angelegenheiten. In der Hoffnung, damit einer chinesischen Invasion vorbeugen zu können, baute er gegen den Widerstand der Klöster eine Armee auf; vor seiner Herrschaft gab es praktisch keine Armee. In Anbetracht der sehr angespannten tibetischen Staatsfinanzen, des intensiven Widerstands der Klöster und anderer Schwierigkeiten hätte er kaum weiter gehen können, als er es tat.

Im Verlauf seiner Regierung beendete der Dalai Lama die chinesische Vorherrschaft in dem großen Teil Tibets, den er beherrschte, indem er chinesische Soldaten und Beamte daraus verbannte. Dieser Teil Tibets wurde zu einem vollkommen unabhängigen Königreich und blieb dies auch während der letzten 20 Jahre seines Lebens.«

Sir Charles Bell in (Bell 2005: 546-47)

Der Vierzehnte Dalai Lama,
Tenzin Gyatso

Der Vierzehnte Dalai Lama, Tenzin Gyatso

?Der jetzige vierzehnte Dalai Lama (Tenzin Gyatso) wurde 1935 geboren. Die Chinesen besetzten Tibet in den frühen 1950er Jahren, der Dalai Lama verlie? Tibet 1959. Er lebt jetzt als Flüchtling in Dharamsala, Nordindien, wo er der Tibetischen Regierung im Exil vorsteht. Als gelehrte und charismatische Pers?nlichkeit, hat er aktiv die Unabh?ngigkeit seines Landes von China vertreten. Durch seine h?ufigen Reisen, Belehrungen und Bücher macht er den Buddhismus bekannt, engagiert sich für den Weltfrieden sowie für die Erforschung von Buddhismus und Wissenschaft. Als Anwalt einer ?universellen Verantwortung und eines guten Herzens?, erhielt er den Nobelpreis im Jahre 1989.?

Paul Williams, »Dalai Lama«, in
(Clarke, 2006, S. 137)

Moralische Legitimation
der Herrschaft Geistlicher

Für Sobisch ist die moralische Legitimation der Herrschaft Geistlicher ?außerordentlich zweifelhaft?. Er konstatiert:

?Es zeigte sich auch in Tibet, da? moralische Integrit?t nicht automatisch mit der Zugeh?rigkeit zu einer Gruppe von Menschen erlangt wird, sondern allein auf pers?nlichen Entscheidungen basiert. Vielleicht sind es ?hnliche überlegungen gewesen, die den derzeitigen, vierzehnten Dalai Lama dazu bewogen haben, mehrmals unmi?verst?ndlich zu erkl?ren, da? er bei einer Rückkehr in ein freies Tibet kein politische Amt mehr übernehmen werde. Dies ist, so meine ich, keine schlechte Nachricht. Denn dieser Dalai Lama hat bewiesen, da? man auch ohne ein international anerkanntes politisches Amt inne zu haben durch ein glaubhaft an ethischen Grunds?tzen ausgerichtetes beharrliches Wirken einen enormen Einfluss in der Welt ausüben kann.?

Jan-Ulrich Sobisch,
Lamakratie - Das Scheitern einer Regierungsform (PDF), S. 190,
Universität Hamburg